Sáng 20-6, tại Đà Nẵng, hội thảo quốc tế với chủ đề “Hoàng Sa - Trường Sa: Sự thật lịch sử" đã được tổ chức, thu hút gần 100 đại biểu là các học giả quốc tế bao gồm các học giả, nhà nghiên cứu quốc tế đến từ Mỹ, Nga, Australia, Ấn Độ, Đức, Nhật Bản, Pháp, Philippines, Hàn Quốc…, cùng các học giả Việt Nam ở nước ngoài và trong nước. Hội thảo do Đại học Đà Nẵng và Trường Đại học Phạm Văn Đồng phối hợp tổ chức.

Hội thảo lần này diễn ra trong bối cảnh tình hình Biển Đông hết sức phức tạp sau khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, nhằm hiện thực hóa yêu sách phi lý "đường lưỡi bò".

Qua các chứng cứ lịch sử cùng nhiều tư liệu, tài liệu được thu thập qua các thời kỳ của các học giả, các nhà nghiên cứu tham dự hội thảo nhất trí rằng, việc căn cứ vào những chứng cứ pháp lý, lịch sử phù hợp luật pháp quốc tế về quyền thụ đắc lãnh thổ để giải quyết tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có ý nghĩa quan trọng đối với việc duy trì hoà bình, ổn định, đảm bảo tự do, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.

Những hành động sử dụng sức mạnh cố ý vi phạm luật pháp quốc tế, phá vỡ nguyên trạng, gây bất ổn khu vực, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ nước khác nhằm thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông của bất kỳ bên nào đều không thể chấp nhận được.

Các ý kiến tại Hội thảo cho rằng hành động của Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và chiếm đóng bất hợp pháp một số bãi ở quần đảo Trường Sa năm 1988 là vi phạm luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, đồng thời nhấn mạnh hành động xâm chiếm bằng vũ lực không thể tạo ra danh nghĩa về chủ quyền

Một số ý kiến tại Hội thảo đã thẳng thắn phê phán yêu sách phi lý "đường lưỡi bò" của Trung Quốc ở Biển Đông đưa ra quốc tế năm 2009. Các đại biểu cho rằng "đường lưỡi bò" là hết sức mơ hồ và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, ngược lại các quy định của luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và rõ ràng đây chính là nguyên nhân gây ra tình hình bất ổn, căng thẳng ở Biển Đông.

Bằng những chứng cứ, tư liệu lịch sử, khoa học..., giáo sư Carl A. Thayer, nguyên giáo sư Học viện Quốc phòng Australia, chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á khẳng định nếu tính từ lịch sử xa xưa tới thế kỷ 17 và thế kỷ 18, có thể thấy rất rõ rằng Việt Nam có cơ sở đáng kể về chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.

Trong thế kỷ thứ 17, chúa Nguyễn đã ra lệnh cho các quan chức trong triều thu nạp thủy thủ cho từ 5 đến 18 thuyền, tạo nên đội Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa hoạt động ở quần đảo Hoàng Sa khoảng 5 tháng để đánh cá, vẽ bản đồ, khảo sát và lấy hàng hóa từ các tàu buôn bị chìm. Các vị vua triều Nguyễn tiếp tục duy trì đội Hoàng Sa. Vua Gia Long đã chính thức chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa từ năm 1816.

Dưới thời của người kế vị - vua Minh Mạng, đội Hoàng Sa lại tiếp tục khảo sát và vẽ bản đồ quần đảo, xây dựng một miếu thờ năm 1835, dựng một bia đá khắc lên yêu sách lãnh thổ của Vương quốc An Nam... Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva 1954 đã tạm thời chia cắt Việt Nam thành hai khu vực dọc theo vĩ tuyến 17. Quần đảo Hoàng Sa nằm dưới vĩ tuyến này, do đó, nó thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa.

Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa phản đối sự chiếm đóng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với các đảo thuộc nhóm An Vĩnh. Cũng năm đó Việt Nam Cộng hòa thay thế các lực lượng Pháp trên quần đảo Hoàng Sa và Bộ Khai khoáng khoa học và Công nghiệp nhỏ tiến hành một cuộc khảo sát đối với bốn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Theo giáo sư Carl Thayer, việc Trung Quốc viện dẫn rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1958 là không chính xác. Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc không đề cập tới quần đảo Hoàng Sa (hay là quần đảo Trường Sa) cũng như không hề thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa...

Ông cho rằng tranh chấp hiện nay về chủ quyền trong các vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa chỉ có thể giải quyết dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS. Việt Nam cần tranh luận mạnh mẽ điểm này trong các trao đổi cấp chính phủ với Trung Quốc. Việt Nam nên vận động Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á tỏ ra mạnh hơn trong sự ủng hộ của ASEAN cho việc giải quyết tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực...

Sau khi phân tích kỹ càng về những giải pháp trong vấn đề tranh chấp tại Biển Đông, giáo sư Jerome A. Cohen, Chủ tịch Viện Luật pháp Hoa Kỳ - châu Á, Đại học Luật New York cho rằng quan điểm chống lại sự tham gia của các cơ chế pháp lý của Trung Quốc đang tạo điều kiện cho các nước láng giềng tăng cường hợp tác phòng thủ với nhau, cũng như tìm kiếm sự ủng hộ lớn hơn từ các nước lớn ngoài khu vực. Tình hình này đi ngược lại với các mục tiêu của ngoại giao chuyên nghiệp Trung Quốc và tạo ra căng thẳng đầy nguy hiểm đang tăng lên trong khu vực.

Theo giáo sư Jerome A. Cohen, Bắc Kinh nên cân nhắc lại sự thù địch của họ đối với các phán quyết của các cơ chế trọng tài công bằng và học cách được hưởng lợi từ những khả năng đó...

Các học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tập trung phân tích và làm rõ các bằng chứng lịch sử, pháp lý về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thông qua các thư tịch và bản đồ cổ phương Tây chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa; những tuyên bố về lịch sử của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (các tài liệu từ thế kỷ XIX); bộ Atlas thế giới của Philippe Vandermaelen và vấn đề chủ quyền trên quần đảo giữa Biển Đông; xác lập và thực thi, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam liên tục và hoà bình tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.

Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng đã công bố Thư tịch và bản đồ cổ phương Tây chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.

Qua các chứng cứ, tư liệu lịch sử đã tiếp cận và thu thập được hơn 100 thư tịch có ghi chép về quần đảo Hoàng Sa và quá trình khám phá, chiếm hữu xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, được xuất bản bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Italy và Hà Lan.

Ngoài các thư tịch cổ, còn có nhiều bản đồ (hơn 140 bản đồ) được các nhà địa lý, các nhà hàng hải, các nhà bản đồ học ở các nước phương Tây vẽ và xuất bản trong các thế kỷ XVI-XIX đã góp phần chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.

Những thư tịch và bản đồ do các nước phương Tây xuất bản trong các thế kỷ XVI-XIX ghi nhận lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến cực Nam đảo Hải Nam (nằm ở phía bắc vĩ tuyến 18 độ Bắc), hoàn toàn không bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam (nằm ở phía nam vĩ tuyến 17 độ Bắc) mà Trung Quốc mới đặt tên là Nam Sa quần đảo từ năm 1931 và hiện đang đỏi hỏi chủ quyền một cách phi lý và phi pháp.

Nhà nghiên cứu Dmitry Valentinovich Mosyakov, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về các nước Đông Nam Á, Australia và châu Đại Dương, Viện Đông phương học, Viện Hàn lâm Khoa học Nga khẳng định vấn đề ai là chủ của những hòn đảo trong Biển Đông vẫn kéo dài cho đến tận ngày nay bởi một thực tế là Trung Quốc không chỉ cố biến những vùng đất xâm chiếm bất hợp pháp thành lãnh thổ của mình mà còn cố chứng minh rằng họ có những vùng đất đó từ xa xưa, có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Những nhà truyền giáo Trung Quốc thường nói rằng những hòn đảo này luôn nằm trong sự kiểm soát kinh tế và chính trị của Trung Quốc. Điều này trái với những sự thật lịch sử mà chúng ta biết được thông qua các công trình nghiên cứu tích cực của các nhà khoa học Việt Nam.

Trong các văn kiện của Bộ Ngoại giao Việt Nam, những hoạt động có tầm quan trọng rất lớn bởi những đội hùng binh này là do Nhà nước cử đi./.