Những vấn đề cấp bách của giáo dục đại học Việt Nam

Nguyễn Minh Thuyết
16:16, ngày 31-07-2008

Phát triển mạng lưới đại học

GS, TS Nguyễn Minh Thuyết

Từ đổi mới đến nay, chúng ta chứng kiến sự ra đời của hàng loạt trường đại học địa phương, đại học dân lập và tư thục. Khoảng 5, 7 năm gần đây, tốc độ mở trường ngày càng gia tăng, trong đó có thêm loại hình liên kết đào tạo với nước ngoài và trường tư thục 100% vốn nước ngoài. Từ trên dưới 70 trường vào những năm 90, tới nay, cả nước đã có trên 300 trường đại học.

Việc phát triển mạng lưới trường đại học đã tăng cường tỷ lệ sinh viên trên số dân, góp phần đáp ứng nhu cầu học tập của thanh niên, đồng thời góp phần thay đổi thứ hạng của nước ta về chỉ số phát triển con người trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, tốc độ phát triển quá nhanh không đi đôi với chất lượng của mạng lưới này cũng đang làm nhiều người phải lo lắng. Nhiều trường cao đẳng sát nhập với nhau thành trường đại học, chỉ sau một quyết định đổi tên. Có trường đại học chuyên ngành, bỗng trở thành trường đào tạo đa ngành chỉ sau một lần đứng ra gánh vác nhiệm vụ giải quyết hậu quả của một vụ hợp tác đào tạo bất thành.
 
Phần lớn các trường dân lập, tư thục sau nhiều năm xây dựng vẫn phải thuê từ giảng viên còn đang lúng túng tìm đường và chưa phải đã được đầu tư đúng mức, thì nghe nói một đến cơ sở vật chất, nhưng hệ thống các trường loại này vẫn phát triển đều. Trong khi hai đại học quốc gia số đại học vùng đã được đưa vào tầm ngắm để bổ sung vào danh sách đại học quốc gia. Nhiều trường quốc tế vào mở liên kết đào tạo chưa phải là những trường danh tiếng ở nước ngoài. Tất cả những điều này đang làm trầm trọng thêm tình trạng yếu kém của giáo dụcđại học nước ta, tăng thêm khoảng cách vốn đã xa giữa yêu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với chất lượng nhân lực được đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang đề xuất sửa quy định trong Luật Giáo dục về thẩm quyền quyết định thành lập trường đại học theo hướng, chuyển thẩm quyền này từ Thủ tướng sang cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Không biết làm như vậy sẽ cải thiện được tình hình hay sẽ phát triển theo hướng trọng số lượng hơn?

Đổi mới công tác tuyển sinh

Nhìn lại quá trình thực hiện công tác tuyển sinh từ năm 1955 đến nay, có thể thấy, chỉ trừ một số năm chống chiến tranh phá hoại của địch trên miền Bắc, chúng ta để các Ban tuyển sinh cấp tỉnh dựa trên kết quả học phổ thông giới thiệu người vào học đại học, nước ta đều tổ chức một kỳ thi tuyển sinh riêng sau kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT). Quyền tổ chức thi và ra đề thi tuyển sinh đã từng thuộc các trường, rồi tập trung về Bộ, sau đó lại giao cho các trường, và từ khoảng 5 năm gần đây lại tập trung về Bộ.

Hội nghị tư vấn tuyển sinh hướng nghiệp
 năm 2008 tại tỉnh Bạc Liêu 

Theo đề án Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trình Chính phủ thì từ năm 2009 tới đây, tất cả các trường đại học sẽ tuyển sinh dựa trên kết quả thi tốt nghiệp THPT. Nhiều người cho rằng, đây là một phương án sai lầm, vì lẫn lộn yêu cầu rất khác nhau của hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, đồng thời hạn chế quyền tự chủ của các trường đại học. Trong tình hình kỷ luật thi ở địa phương chưa nghiêm, việc tuyển sinh đại học dựa trên kết quả thi tốt nghiệp THPT dễ tạo ra sự thiếu công bằng; thậm chí, một số trường đại học địa phương dễ có nguy cơ biến thành chỗ gửi gắm “con ông cháu cha” ở địa phương đó và vùng lân cận. Ngoài ra, nếu áp dụng hình thức cử thanh tra uỷ quyền của Bộ đến coi thi ở các địa phương hoặc chuyển đổi cán bộ coi thi giữa các địa phương, Nhà nước sẽ tốn một khoản kinh phí rất lớn, trong khi tổ chức thi như hiện nay hoặc để từng trường hay cụm trường tổ chức thi, thì xã hội có thể chia sẻ với Nhà nước khoản kinh phí “di chuyển” này.

Một vấn đề cũng đang thu hút dư luận là hình thức thi trắc nghiệm khách quan. Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan là nó loại bỏ được dấu ấn cá nhân của người làm bài và ảnh hưởng của những yếu tố chủ quan như kĩ năng, sở thích, tình cảm chủ quan của người chấm bài khi cho điểm, đồng thời có thể chấm nhanh, chấm bằng máy, thích hợp với những kỳ thi đông người như thi tốt nghiệp THPT hoặc thi tuyển sinh đại học. Nhưng, hình thức trắc nghiệm này có một nhược điểm lớn là không đánh giá được khả năng lập luận và khả năng diễn đạt của thí sinh.
 
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, các trường phổ thông và đại học đều không đánh giá cao hình thức trắc nghiệm này. Người ta cho rằng trắc nghiệm khách quan chỉ có thể kiểm tra những kiến thức riêng rẽ, vụn vặt mà không thể đánh giá được năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. Bởi vậy, người ta khá thờ ơ với trắc nghiệm khách quan. Còn ở Hoa Kỳ, quê hương của trắc nghiệm khách quan, một hội thảo từ năm 1991 của Hội Cải cách giáo dục Mỹ cũng đã nhận định: “Các bài kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan hoặc trả lời ngắn đều rất hạn chế, vì chúng không đánh giá được khả năng tư duy bậc cao, năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, khả năng sáng tạo” .

Theo chúng tôi, trong các kỳ thi tới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường cần có phương án kết hợp trắc nghiệm khách quan với tự luận để đánh giá chính xác năng lực của học sinh.

Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo

Mặc dù trong những năm gần đây, các trường đại học đã có những cố gắng nhất định trong việc đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, nhưng nhìn chung chương trình đào tạo vẫn còn lạc hậu – nhất là về khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn (trong đó có kinh tế, tài chính, ngân hàng); phương pháp dạy của thầy vẫn nặng về truyền thụ, phương pháp học của trò nhìn chung vẫn thụ động, một chiều. Chúng ta đang cố gắng khắc phục hạn chế này bằng cách tiếp nhận chương trình đào tạo của một số nước phát triển. Tuy nhiên, những cố gắng này sẽ khó đưa lại kết quả tích cực, chừng nào còn tồn tại sự thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học và thực tiễn lao động, sản xuất, kinh doanh như hiện nay. Sự thiếu gắn kết này khiến nội dung và phương pháp đào tạo khó thoát khỏi tình trạng lạc hậu, xơ cứng, giáo điều; và tai hại nhất là nó làm mất sức sống, mất động lực phát triển của đào tạo.
 
Một số trường đại học đang tìm kiếm quan hệ hợp tác với doanh nghiệp, nhưng trong phần lớn các trường hợp, họ bị đặt vào thế yếu. Hai Viện nghiên cứu quốc gia lẽ ra nên được chuyển đổi thành hai học viện để phát huy thế mạnh về nghiên cứu khoa học của mình thì, có lẽ vì lưu luyến với triển vọng trở thành Viện Hàn lâm khoa học, chỉ xin mở trường đại học trực thuộc. Theo tôi, cùng với những cố gắng của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc kết nối nhà trường, viện nghiên cứu và doanh nghiệp hiện nay, Nhà nước cần rút ngắn sự mầy mò tìm kiếm của các trường, các viện bằng cách tạo ra cơ chế để các cơ sở này gắn bó với nhau và với doanh nghiệp. Những cải cách kinh tế được đẩy mạnh cũng sẽ tạo ra một thị trường lao động sôi nổi, lành mạnh, công bằng, tạo sức ép buộc các trường đại học phải nâng cao chất lượng đào tạo.

Nâng cao chất lượng cán bộ

Ai cũng biết nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp là cán bộ. Trong đào tạo, chương trình dù có tiên tiến đến mấy mà người thực hiện là những cán bộ yếu về trình độ, kém về phẩm chất thì chương trình ấy cũng không phát huy được hiệu quả. Ngược lại, một chương trình dù còn hạn chế nhưng được một đội ngũ cán bộ tâm huyết, tài năng và có phương pháp làm việc đúng đắn thực hiện, thì họ vẫn có thể vượt qua những hạn chế của chương trình, đem đến cho người học nhiều tri thức bổ ích và đặc biệt là phương pháp tư duy, phương pháp tiếp cận vấn đề. Chính vì lý do này, việc tái đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là hết sức quan trọng.
 
Trong hàng chục năm qua, bằng kinh phí nhà nước và các nguồn hợp tác quốc tế, chúng ta đã gửi nhiều cán bộ giảng dạy đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Nhưng hình như việc đào tạo, bồi dưỡng này chỉ nằm trong khuôn khổ các khoá đào tạo chính thức để lấy bằng cấp, chứng chỉ; ít có cán bộ, giảng viên được cử đi làm việc từ dăm bảy tháng đến vài năm để thực sự thâm nhập vào đời sống học thuật của các trường nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm của bạn, để khi về nước phục vụ cho công tác giảng dạy, quản lý, điều hành của các trường ĐH nước ta. Đây là một hướng bồi dưỡng cán bộ cần được lưu ý trong những năm tới.

Việc trau dồi đạo đức cán bộ, đạo đức nhà giáo trong các trường cũng cần được quan tâm hơn. Cuộc vận động chống tiêu cực trong thi cử, chống bệnh thành tích không nên dừng ở bậc học phổ thông. Hiện tượng “phao thi” trắng xoá sân trường sau mỗi kỳ thi, nhiều sinh viên, học viên sau đại học chép luận văn, luận án, chạy điểm thầy và hiện tượng một số thầy trục lợi từ quyền lực của mình, cần được sớm chấm dứt để đem lại sự trong sạch cho môi trường sư phạm.

Cải thiện điều kiện học tập, làm việc

Điều kiện học tập, làm việc (bao gồm giảng đường, thư viện, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, ký túc xá, sân tập, phòng thể thao, ... và kinh phí đào tạo, sinh hoạt phí của người học, lương của người dạy) là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo. Trong điều kiện kinh tế eo hẹp hiện nay, Nhà nước không nên đầu tư dàn trải, dàn đều mà nên tập trung xây dựng hai đại học Quốc gia, một số đại học vùng, các trường đại học Bách khoa, Y khoa, Kinh tế quốc dân, Nông nghiệp, Sư phạm thành những cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học hiện đại, ngang tầm các trường đại học lớn trong khu vực,” làm đầu tầu” kéo đoàn tầu đại học nước ta tiến lên. Còn lại, nên tính đến việc chuyển các trường đại học khác thành trường dân lập, tư thục hoặc tạo cơ chế tự chủ rộng rãi hơn để các trường phát triển theo quy luật kinh tế thị trường. Việc tạo cơ chế liên kết giữa các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp cũng là một phương thức cải thiện điều kiện học tập, làm việc của cán bộ, sinh viên, học viên sau đại học./.