TCCS - Ở Bình Định, Chương trình mục tiêu giảm nghèo đã và đang thu hút các cấp các ngành, các địa phương và các tầng lớp nhân dân tham gia, tạo thành phong trào sâu rộng trong toàn tỉnh. Nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện lồng ghép gắn với giảm nghèo bền vững, từng bước đi vào chiều sâu, tạo điều kiện cho hộ nghèo, xã nghèo vươn lên thoát nghèo, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung trên địa bàn.

Bình Định có 19 xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) thuộc Chương trình 135 giai đoạn II và 52 thôn ĐBKK ở 22 khu vực II và 20 xã ĐBKK vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo. Kết cấu hạ tầng, điều kiện vật chất ở những nơi này thấp kém, tập quán sản xuất lạc hậu, đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Cách đây hơn 5 năm, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh lên tới hơn 19,66%. Mỗi năm, khoảng trên 3 ngàn hộ dân thiếu lương thực và trên 11.000 hộ phải sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát cần phải cứu trợ; hơn 40% hộ nghèo sống ở nông thôn chưa được sử dụng điện lưới quốc gia...

Khắc phục tình trạng trên, đồng thời quán triệt và thực hiện nghị quyết, chương trình mục tiêu về giảm nghèo của Trung ương và của tỉnh, 5 năm qua, các cấp các ngành, các địa phương ở Bình Định luôn tập trung ưu tiên đầu tư lớn cho công tác giảm nghèo và xem đây là mục tiêu chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững của địa phương. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tích cực tham mưu cho lãnh đạo và các cấp các ngành trong tỉnh xây dựng và ban hành nhiều chính sách, dự án và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào mục tiêu chung: giúp người nghèo, xã nghèo, huyện nghèo phát triển kinh tế - xã hội hướng đến giảm nghèo bền vững và xã hội hóa công tác này.

Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, các cấp, các ngành và các địa phương lồng ghép, thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án theo Nghị định 135 và 120 của Chính phủ. Đến nay, hệ thống cầu, cống qua sông, suối lớn trên địa bàn cơ bản được xây dựng và hoàn thành. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ và đường đến xã thông suốt bốn mùa. Các chỉ tiêu về mở mới, nâng cấp, rải nhựa đường, bê-tông hóa đường giao thông nông thôn đều đạt chỉ tiêu đề ra. Các công trình thủy lợi được chú trọng đầu tư, phong trào kiên cố hóa kênh mương phát triển mạnh góp phần tăng diện tích gieo trồng và tăng năng suất, sản lượng cây trồng. Hệ thống điện, đường, trường học, trạm y tế, trụ sở xã, thôn, bản, nhà lưu trú giáo viên và học sinh được đầu xây dựng khang trang, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn và miền núi. Nhiều dự án, chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, Chương trình 135, 134, 120, Chương trình 661, Chương trình khuyến nông - lâm - ngư - công, dạy nghề cho nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ về y tế, giáo dục, cho vay phát triển sản xuất, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cơ sở... được triển khai và thực hiện có hiệu quả, đúng mục tiêu, đúng đối tượng.

Cùng với thực hiện tốt các dự án, chương trình trên, Bình Định đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa công tác giảm nghèo, phát động nhiều cuộc vận động thu hút các cấp, các ngành, đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tham gia giúp hộ nghèo thoát nghèo. Mỗi năm, ngoài kinh phí do Trung ương cấp, Bình Định huy động được hơn 12 tỉ đồng từ nguồn đóng góp tự nguyện của nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể trên địa bàn. Tiêu biểu như Cuộc vận động ủng hộ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo qua 2 giai đoạn (2007 - 2008) và (2009 - 2010) đã huy động được trên 52,3 tỉ đồng, giúp hộ nghèo có 3 nhu cầu cấp thiết “bể nước, mái nhà, con bò” để sinh sống, lao động và sản xuất, hỗ trợ lương thực cho các hộ nhận khoán trồng rừng...

Ngoài ra, tỉnh còn có những chính sách hỗ trợ đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số thiết thực như: hỗ trợ ti-vi, kéo điện, xóa nhà tạm, giống cây trồng, hỗ trợ nuôi dê, bò, hỗ trợ khai hoang, cho vay tiền không lãi nuôi trâu bò, dê, mua hàng hóa thiết yếu,... Cùng với tỉnh, các huyện, thành phố trên địa bàn cũng tích cực huy động các nguồn vốn để tạo điều kiện cho người nghèo vay vốn làm ăn, tăng thu nhập. Tiêu biểu như thành phố Quy Nhơn, những năm qua đã phối hợp với Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh cho 6.000 lượt hộ nghèo vay 69,4 tỉ đồng đầu tư chăn nuôi gia súc, gia cầm, khai thác, chế biến và nuôi trồng thủy, hải sản; phê duyệt 838 dự án vay vốn giải quyết việc làm với tổng vốn trên 17,18 tỉ đồng, góp phần giải quyết việc làm cho trên 2.100 lao động; cho 13.287 lượt hộ gia đình có con là sinh viên vay trên 68,27 tỉ đồng. Ngoài ra, các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố và các phường, xã còn khai thác từ nhiều nguồn vốn trên 442 tỉ đồng, giúp cho gần 84 nghìn lượt phụ nữ nghèo vay để phát triển kinh tế gia đình.

Theo số liệu của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bình Định, từ năm 2006 đến nay, đã cho 213.796 lượt hộ nghèo vay từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi thông qua Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội. Tổng số dư nợ cho vay hộ nghèo đến cuối năm 2010 đạt trên 2,14 tỉ đồng. Về nhà ở, đến nay tỉnh đã hỗ trợ cải thiện nhà ở cho hơn 70 nghìn hộ nghèo thuộc diện chính sách, trên 1.909 nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định số 167 của Thủ tướng Chính phủ; xây dựng hơn 13 nghìn ngôi nhà từ Quỹ “Ngày vì người nghèo” với tổng nguồn vốn trên 50 tỉ đồng, trong đó vốn ngân sách địa phương 17 tỉ đồng và vốn huy động khác trên 15 tỉ đồng.

Những năm gần đây, nhằm thực hiện đồng bộ, nhanh, có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp trọng tâm, tỉnh còn chủ trương tăng cường cán bộ xuống cơ sở, đưa cán bộ đại học về cơ sở tham gia phối hợp chỉ đạo các dự án, tập huấn kinh nghiệm sản xuất và vận động nhân dân giúp nhau giảm nghèo, xóa nhà tạm cho các hộ nghèo,... Tỉnh còn phân công 36 doanh nghiệp trên địa bàn trực tiếp giúp 19 xã ĐBKK thực hiện chương trình mục tiêu giảm nghèo của địa phương như: xây dựng dự án, hỗ trợ vốn, xây dựng kết cấu hạ tầng, hướng dẫn các hộ dân cách thức làm ăn, tiêu thụ sản phẩm,...

Nhờ những chính sách và giải pháp đồng bộ, Chương trình mục tiêu giảm nghèo của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 đạt kết quả cao. Hằng năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 1,5 - 2%, hiện nay còn 8,3% (theo tiêu chí mới) giảm 11,3% so với năm 2005. Riêng số hộ nghèo ở miền núi giảm 18,7%, so với năm 2005. Kết quả này thực sự góp phần tích cực vào sự tăng trưởng của nền kinh tế địa phương. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tăng bình quân hằng năm 7,5%, tăng 1,7% so với giai đoạn 2001 - 2005 và vượt 2% so với chỉ tiêu đề ra; cơ bản bảo đảm an sinh xã hội, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.

Có được những thành tựu trên, trước hết xuất phát từ chủ trương, giải pháp giảm nghèo đúng đắn, cộng với quyết tâm chính trị cao và sự kiên trì của các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác giảm nghèo, đoàn kết, chấp nhận những khó khăn, thách thức, phức tạp trong công cuộc chống đói nghèo, dần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, tiến tới đồng thuận và hưởng ứng của tất cả các cấp, các ngành và tầng lớp nhân dân.

Thứ hai, cán bộ và nhân dân trong tỉnh kế thừa và phát huy có hiệu quả những kinh nghiệm thực tiễn, triển khai đồng bộ nội dung và biện pháp thực hiện từ thấp đến cao, từ đơn giản (đủ ăn) đến toàn diện (nhu cầu tối thiểu) và nâng dần theo hướng bền vững (cải thiện mức sống, điều kiện sống và chất lượng cuộc sống) của người nghèo, hộ nghèo; chú trọng công tác giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, khuyến khích động viên ý chí tự vươn lên của người nghèo, hộ nghèo và vùng nghèo.

Thứ ba, tỉnh ưu tiên huy động các nguồn lực đầu tư cho mục tiêu giảm nghèo và làm chuyển biến bộ mặt các vùng nghèo; có chính sách ưu đãi, khuyến khích hỗ trợ vượt nghèo và thực hiện tốt các chính sách ưu đãi xã hội như bảo hiểm y tế, miễn giảm lao động công ích, hỗ trợ về nhà ở, điều kiện sinh hoạt cho hộ nghèo... tạo mọi điều kiện để giảm nghèo toàn diện và bền vững.

Thứ tư, có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành với các địa phương trong việc thực hiện lồng ghép chương trình xóa đói giảm nghèo với các chương trình kinh tế - xã hội; triển khai và tổ chức thực hiện kế hoạch, mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, thiết thực; thực hiện các giải pháp phù hợp, hiệu quả cho từng vùng nghèo, khu vực nghèo, hộ nghèo trên địa bàn tỉnh.

Thứ năm, tăng cường nâng cao nhận thức, từng bước thay đổi cơ bản về nếp nghĩ, loại bỏ dần tư tưởng an phận, trông chờ, ỷ lại của người nghèo, hộ nghèo; giúp họ biết tổ chức lại cuộc sống, xem trọng việc học chữ, học nghề, học cách làm ăn.

Thứ sáu, gắn kết chặt chẽ công tác giảm nghèo với Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, Chương trình mục tiêu 3 giảm, Chương trình phổ cập giáo dục, Chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Quy chế Dân chủ ở cơ sở...

Những thành tựu đó rất quan trọng, nhưng cũng mới là bước đầu, giảm nghèo ở Bình Định vẫn chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo luôn tiềm ẩn. Ở các xã vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp chưa tiếp thu được tiến bộ kỹ thuật. Dân cư sống không tập trung nên khó khăn trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao, trong đó hộ nghèo khu vực nông thôn chiếm hơn 87%, ở ba huyện miền núi: Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão, tỷ lệ hộ nghèo chiếm trên 50%.

Những năm tiếp theo, Bình Định tiếp tục đẩy mạnh Chương trình mục tiêu giảm nghèo trên địa bàn; triển khai nhanh, có hiệu quả Nghị quyết số 30a của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững ở ba huyện nghèo: Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn; thực hiện đa dạng hóa hình thức huy động các nguồn vốn hỗ trợ người nghèo; tạo điều kiện và khuyến khích những người thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo,... phấn đấu mỗi năm giảm từ 1,5 - 2% số hộ nghèo, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển mạnh, tạo tiền đề cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020./.