TCCSĐT - Trong ngày làm việc thứ 21(13-6), kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, các đại biểu tiếp tục chất vấn các bộ trưởng, trưởng ngành.

 

 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội sáng 13-6

Sáng 13-6, trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã làm rõ các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, thúc đẩy tiêu thụ, hiện đại hóa nông nghiệp; xây dựng thương hiệu quốc gia; xây dựng chương trình nông thôn mới…

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã giải trình thêm những vấn đề liên quan.

Trả lời câu hỏi của đại biểu Trương Minh Hoàng (Cà Mau) về giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản hàng hóa chủ lực, góp phần tăng giá trị để người dân có thể làm giàu từ nông nghiệp, Bộ trưởng Cao Đức Phát khẳng định: Nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản là mục tiêu quan trọng của quá trình hiện đại hóa nông nghiệp.

Các giải pháp đặt ra là tiếp tục điều chỉnh cơ cấu sản xuất, tập trung vào các mặt hàng là thế mạnh; tiếp sức cho nông dân bằng việc tăng cường nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật. Đồng thời, xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ đồng bộ; khuyến khích phát triển bảo quản chế biến bằng công nghệ hiện đại; tổ chức lại sản xuất, hình thành các chuỗi kết nối người sản xuất với thị trường.

Liên quan đến việc xây dựng thương hiệu quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang nỗ lực chỉ đạo các Viện nghiên cứu chọn, đưa ra những giống đảm bảo chất lượng cao, ổn định, phối hợp với các địa phương hướng dẫn, tổ chức nông dân sản xuất hàng loạt để doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu chất lượng cao, ổn định.

Đại biểu Nguyễn Thái Học (Phú Yên) chất vấn: Vấn đề mấu chốt đặt ra là cứ đến mùa thu hoạch, người dân được mùa nhưng phải chịu thiệt do bị thương lái ép giá ? Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết, đang cùng các bộ, ngành thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tìm giải pháp trước mắt và lâu dài. Trước hết là hướng dẫn nông dân tập trung sản xuất cây trồng, vật nuôi có thị trường với năng suất cao, giá thành giảm hơn, tốt hơn, rẻ hơn đối thủ cạnh tranh, đảm bảo sản phẩm làm ra không bị ế. Mặt khác, để người nông dân không bị ép giá, cách tốt nhất là tạo môi trường cạnh tranh, không để tổ chức hoặc nhóm đơn vị có ưu thế trên thị trường ép giá nông dân, khống chế giá thị trường. Mặt khác, khuyến khích nông dân hình thành các hợp tác xã, chuỗi sản xuất, trên cơ sở đó tạo vị thế mạnh hơn trên thị trường.

Đồng tình với đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang): tạm trữ chỉ là giải pháp tình thế, chưa phải là biện pháp căn cơ, giải quyết mọi vấn đề của ngành lúa gạo, Bộ trưởng cho rằng đã đến lúc cần có sự chuyển biến căn bản. Mặc dù có chủ trương giữ 3,8 triệu ha đất lúa nhưng cơ cấu cây trồng trên diện tích đó phải được điều chỉnh phù hợp, không nhất thiết phải trồng lúa mà có thể trồng cây khác có thị trường, đem lại thu nhập cao hơn.

Những diện tích trồng lúa cần được quy hoạch, hướng dẫn, hỗ trợ nông dân sản xuất với những giống chất lượng cao hơn, quy trình tiến bộ, đảm bảo năng suất cao, giá thành thấp hơn. Đồng thời, tiếp tục hỗ trợ phát triển về công nghệ bảo quản, công nghệ chế biến, tăng cường năng lực thị trường để có thể bán sản phẩm vào thị trường thế giới với giá cao và ổn định hơn. Chỉ khi đó, người nông dân mới được hưởng lợi ích cao hơn từ nông nghiệp - Bộ trưởng nhấn mạnh.

Về các chính sách hỗ trợ tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết: năm 2012 và những tháng đầu năm 2013, tín dụng cho nông dân, nông nghiệp, nông thôn đã liên tục tăng với tốc độ cao hơn mức tăng bình quân của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng cũng chỉ đạo có những gói tín dụng ưu tiên hỗ trợ tiêu thụ lúa gạo, cá tra, tôm và các sản phẩm chăn nuôi. Riêng về hỗ trợ phát triển mô hình cánh đồng mẫu lớn, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tiêu thụ nông sản do nông dân làm ra từ mô hình cánh đồng này để giải quyết điểm mấu chốt khó khăn.

Tham gia giải trình thêm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho biết: Trong giai đoạn đất nước gặp nhiều khó khăn, thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, hệ thống ngân hàng đã ưu tiên nguồn vốn để nông nghiệp, nông thôn có bước phát triển ổn định, vững chắc. Từ năm 2008 đến nay, hàng năm, tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn tăng trung bình khoảng 20%/năm. Riêng 5 năm vừa qua, đặc biệt là từ năm 2010, tín dụng trong nông nghiệp, nông thôn tăng nhanh chóng, gấp 2 lần. Đến ngày 31-12-2012, dư nợ tín dụng lĩnh vực này là 561.533 tỷ đồng.

Nêu một số gói tín dụng hiện nay đang áp dụng ưu tiên cho phát triển nông nghiệp, Thống đốc Nguyễn Văn Bình khẳng định ngành ngân hàng đã dành nguồn tín dụng lớn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn và trên thực tế đã đạt một số kết quả; trên cơ sở những chương trình cụ thể đáp ứng đủ nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương sẽ phối hợp chặt chẽ hơn nữa để chính sách hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn và các chính sách đối với nông dân phát huy hiệu quả hơn nữa.

Trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Văn Rinh (Hải Dương), Bộ trưởng Cao Đức Phát khẳng định: Xây dựng nông thôn mới là chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân đồng thời cũng là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài. Thực tiễn hơn 3 năm thực hiện ở các xã điểm cũng như ở nhiều địa phương cho thấy, chủ trương này có thể thực hiện được hiệu quả nếu nhận thức đúng, quyết tâm cao và cách làm đúng.

Bộ trưởng cho biết, nhiệm vụ đặt ra là tới 2015 có 20% xã đạt các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới (tức là 1815 xã). Tuy nhiên không chỉ các xã này mà tất cả các xã cũng phải có một số tiêu chí đạt ở mức cao hơn. Đến hết năm 2012 đã có gần 215 xã đạt 19 tiêu chí, bình quân toàn quốc đạt 6,41 tiêu chí, tăng 1,13 tiêu chí so với năm 2011. Để thúc đẩy chương trình xây dựng nông thôn mới, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân; hoàn thành quy hoạch lập đề án xây dựng nông thôn mới; lồng ghép các nguồn lực để hỗ trợ thực hiện các nội dung ưu tiên như phát triển sản xuất, thực hiện các tiêu chí không phải về cơ sở hạ tầng… Bộ trưởng nhấn mạnh: Nhà nước cần tiếp tục tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho chương trình”.

Theo đại biểu Trần Văn Minh (Quảng Ninh), trong Chương trình xây dựng nông thôn mới, nhiều ngành, địa phương chú trọng thực hiện chỉ tiêu xây dựng hạ tầng mà chưa chú trọng đúng mức giúp người dân thay đổi phương thức, tập quán canh tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật. Đại biểu cho rằng đây mới là vấn đề bản chất giúp nông dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thành công.

Thừa nhận tình trạng trên, Bộ trưởng cho biết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề nghị các địa phương khẩn trương thực hiện xây dựng quy hoạch về sản xuất của từng xã với tinh thần mỗi xã rà soát để lựa chọn 1-3 sản phẩm chủ lực, là lợi thế của địa phương có năng suất cao hơn, giá rẻ hơn so với địa phương khác, có thị trường tiêu thụ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Từ đó, tập trung các nguồn lực để sản xuất các sản phẩm đã lựa chọn.

Đại biểu Phạm Xuân Thường (Thái Bình) nêu vấn đề: Theo dự thảo Luật đất đai 2003 sửa đổi, thời hạn giao đất sản xuất nông nghiệp không chỉ là 20 năm mà trên 50 năm và hạn sử dụng có thể kéo dài thêm 50 năm nữa. Như vậy sẽ có nhiều triệu nông dân sinh sau năm 1993 trong vòng 100 năm tới phải tiếp tục đi thuê đất của người khác để sản xuất nhằm đảm bảo cuộc sống và thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước và xã hội. Đại biểu cho rằng, đây là vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội rất lớn, tác động đến nhiều người dân.

Giải trình về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang cho rằng cần xuất phát từ Nghị quyết 19 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 ( khóa XI) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai. Theo đó, Trung ương tiếp tục khẳng định không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá nhân.

Thực hiện chủ trương này, dự thảo Luật Đất đai 2003 (sửa đổi) đề xuất tăng thời hạn sử dụng đất nông nghiệp lên 50 năm để đảm bảo cho người được giao đất yên tâm sản xuất, tránh những thủ tục không cần thiết khi hết thời hạn sử dụng đất, đồng thời bảo đảm quyền chủ sở hữu của Nhà nước.

Theo dự kiến sửa đối, đối với người đã chết, không có nhu cầu sử dụng đất sẽ thực hiện chuyển đổi quyền sử dụng đất hoặc thực hiện thừa kế, tặng cho đối với những người sinh sau năm 1993 theo quy định của pháp luật về đất đai. Thời gian qua, một số địa phương có biện pháp điều chỉnh lại đất nông nghiệp trong nội bộ địa bàn dân cư thông qua sự đồng thuận trong địa bàn dân cư như: Thực hiện dồn điền đổi thửa, thu hồi đất nông nghiệp đối với một số trường hợp do không có nhu cầu sử dụng, hộ gia đình chuyển đổi nghề chuyển nhượng đất nông nghiệp cho hộ chưa có đất hoặc có nhu cầu sử dụng đất nhiều hơn.

Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang cho rằng, về lâu dài, sau năm 2020, khi đất nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, lao động nông nghiệp sẽ chuyển dịch sang lao động công nghiệp và các hoạt động dịch vụ khác. Khi đó, lao động nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 30-35% nên áp lực về sử dụng đất nông nghiệp sẽ giảm xuống, vấn đề tạo quỹ đất cho lao động mới hình thành không trở thành nhu cầu bức bách như sẽ hiện nay.

Kết luận, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng Bộ trưởng Cao Đức Phát đã trả lời cụ thể, thấu đáo, làm rõ thêm tình hình và nếu làm tốt các giải pháp đã đề ra, sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, đời sống nông dân và phát triển nông thôn trong thời gian tới.

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh: Tới đây, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần làm tốt công tác quy hoạch; xây dựng các mô hình sản xuất phù hợp với thực tiễn, nắm bắt khoa học, kinh nghiệm quốc tế; công nghiệp hóa phương thức sản xuất, đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp; có quy trình quản lý sản xuất, kinh doanh và lưu thông, phân phối một cách chặt chẽ, nâng cao chất lượng, hiệu quả, tránh thiệt hại cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Cần phát huy những sản phẩm ưu thế, xây dựng thương hiệu; rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Mặt khác, phải kiên quyết chống tình trạng phá rừng, lâm tặc, cháy rừng; tăng cường bảo vệ rừng và trồng rừng; quy hoạch thủy điện, có chính sách đặc thù cho người dân vùng thủy điện; hoàn thành quy hoạch phát triển đất nông, lâm trường, chính sách di dân, tái định cư. Sớm sơ kết, đánh giá để đẩy nhanh, mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới, tập trung chăm lo, vận động phong trào, tập trung vào các tiêu chí quan trọng nhất để nông thôn, nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh, đảm bảo đời sống của nông dân.

Tiếp tục chương trình kỳ họp, người thứ hai đăng đàn trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội là Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh.

Nội dung trả lời chất vấn của Bộ trưởng tập trung làm rõ ba vấn đề là các giải pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao phẩm chất đạo đức xã hội; biện pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém thúc đẩy phát triển du lịch Việt Nam, thương hiệu du lịch Việt Nam; đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao, rèn luyện thân thể của toàn dân góp phần nâng cao thể chất, sức khỏe, trí tuệ của người Việt Nam.

 

 Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh 

Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Hoài Phương (Tây Ninh) về những giải pháp "chặt chém" khách du lịch, chất lượng sản phẩm du lịch kém hấp dẫn, Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh nêu rõ Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược về phát triển du lịch Việt Nam và đã có Quy hoạch tổng thể về phát triển du lịch Việt Nam. Đảng và Nhà nước đánh giá cao vai trò du lịch trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết, là việc thu ngoại tệ cho đất nước, góp phần tăng trưởng GDP, tạo động lực cho các ngành khác phát triển. Nếu như năm 1995, chỉ đóng góp vào tăng trưởng GDP 3,21% thì đến năm 2012 du lịch đã đóng góp vào GDP gần 6%.

Bộ trưởng nhấn mạnh quan điểm phát triển du lịch theo Chiến lược đã được phê duyệt gồm du lịch Việt Nam phải nhanh chóng trở thành lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, góp phần tăng trưởng GDP; gắn phát triển du lịch với bảo tồn các di tích lịch sử; tăng cường xã hội hóa...

Nói về những giải pháp căn bản sắp tới để phát triển du lịch, Bộ trưởng cho rằng cần xem xét sự hoàn thiện của chuỗi dịch vụ và sản phẩm. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chuyển 5 trường trung cấp du lịch thành trường cao đẳng nghề du lịch tại Hải Phòng, Đà Nẵng, Nhà Trang, Đà Lạt... cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến quảng bá; tổ chức liên kết trong phát triển du lịch; quản lý nhà nước về du lịch, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Thừa nhận vẫn tồn tại tình trạng “chặt chém” du khách, gây sự thiếu thiện cảm đối với ngành "công nghiệp không khói", Bộ trưởng cho biết nguyên nhân là do sự phối hợp liên ngành chưa tốt; thiếu kiểm tra, giám sát những điểm du lịch có nguy cơ mất trật tự, "chặt chém" du khách; các văn bản liên quan để xử lý vi phạm, các mức độ xử phạt còn nhẹ.

Giải quyết vấn đề này, Bộ trưởng cho biết sắp tới Bộ sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ để ban hành Nghị định tăng mức xử phạt. Song, Bộ trưởng cũng nhấn mạnh hiện tượng này không phải là phổ biến ở tất cả các địa phương.

Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình) về những giải pháp khắc phục yếu kém nội tại, đưa ngành du lịch phát triển tương xứng với tiềm năng, Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh cho rằng tiềm năng du lịch của Việt Nam là rất lớn, nhưng để tiềm năng trở thành hiện thực đòi hỏi một quá trình tích lũy kinh nghiệm, nâng cao nhận thức của người dân... 

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đề nghị Bộ trưởng trả lời dứt điểm câu hỏi của đại biểu là đến năm 2020 theo chiến lược phát triển 10 năm thì du lịch Việt Nam có ngang tầm khu vực không? Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh khẳng định để đạt mục tiêu này, đòi hỏi phải phấn đấu nhiều, nỗ lực nhiều và cần có sự chung tay góp sức của người dân, của chính quyền các cấp và đặc biệt là các doanh nghiệp.

Về các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về du lịch, Bộ trưởng cho biết cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Sắp tới Bộ sẽ sửa đổi Luật Du lịch và Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về du lịch, triển khai quy hoạch vùng... Bộ trưởng mong muốn các địa phương phối hợp trong việc quy hoạch phát triển du lịch.

Đại biểu Nguyễn Trung Thu (Long An) phản ánh đời sống xã hội hiện nay đang thiếu vắng các tác phẩm hay, tác phẩm đỉnh cao. Giải thích vấn đề này, Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh nêu lý do tiềm lực của đội ngũ sáng tác, nghiên cứu, lý luận và phê bình còn yếu; chính sách cho lực lượng này chưa thật tốt; lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt là điện ảnh hay sân khấu, nghệ thuật truyền thống gặp nhiều khó khăn.

Bộ trưởng cho biết Bộ đã cùng các bộ, ngành khác xây dựng 5 đề án liên quan đến lĩnh vực này. Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 844 về đấu thầu, đặt hàng các tác phẩm. Sắp tới sẽ có sự đặt hàng, lựa chọn tác phẩm và có chính sách khuyến khích để nghệ sỹ cống hiến. Bộ sẽ phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Nội vụ sửa hai quyết định về tiền nhuận bút và tiền bồi dưỡng luyện tập.

Nêu giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động biểu diễn, Bộ trưởng cho biết sẽ siết chặt từ khâu cấp phép đến duyệt chương trình và hậu kiểm. Những chương trình biểu diễn không đảm bảo về an ninh trật tự sẽ không cho tổ chức. Bộ sẽ hoàn thiện các văn bản về xử phạt hành chính về lĩnh vực này theo hướng tăng mức xử phạt cao hơn. Ngoài rút giấy phép không cho biểu diễn thì các nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, hát "nhái", làm động tác để tạo scandal thu hút khán giả sẽ đình chỉ biểu diễn hoặc phạt cấm biểu diễn từ 3 đến 6 tháng...

Trước một số chất vấn của đại biểu Quốc hội về phát triển văn hóa đọc, đặc biệt trong giới trẻ hiện nay, Bộ trưởng đánh giá hiện xã hội đang bị chi phối bởi nhiều loại hình vui chơi giải trí, đặc biệt là lĩnh vực thông tin truyền thông. Trong khi đó, hệ thống thư viện của Việt Nam không đồng đều. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã áp dụng biện pháp luân chuyển sách từ thư viện tỉnh đến huyện và các xã. Tuy nhiên Bộ trưởng cho rằng cần phải vận động nhân dân để nâng cao văn hóa đọc.

Giải trình thêm cùng Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son đã nêu rõ hơn về ảnh hưởng, tác động của thông tin, cụ thể là Internet tới văn hóa. Các giải pháp Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tập trung triển khai trong thời gian tới bao gồm tham mưu các cấp có thẩm quyền, Chính phủ xây dựng nghị định mới về việc quản lý, cung cấp sử dụng dịch vụ Internet.

Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho biết Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển Internet hơn nữa, quản lý chặt chẽ hoạt động Internet, tạo điều kiện khai thác những mặt tích cực trên Internet phục vụ cuộc sống. Bộ cũng có chế tài vừa khuyến khích, tạo môi trường cho Internet phát triển, vừa xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm đồng thời tăng cường củng cố tổ chức bộ máy, trang bị thiết bị cơ sở cần thiết, nâng cao trình độ đội ngũ nguồn nhân lực quản lý an toàn thông tin trên mạng cũng là những giải pháp mà Bộ Thông tin và Truyền thông hướng tới.

Tại phiên giải trình, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đã tham gia làm rõ thêm một số vấn đề liên quan. Bộ trưởng đánh giá công tác giáo dục đạo đức trong học sinh sinh viên thời gian qua có những đổi mới tiến bộ, thu được nhiều kết quả. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, tình trạng bạo lực học đường đang có diễn biễn phức tạp, đạo đức học sinh có những diễn biến mới.

Theo Bộ trưởng, tình trạng này có các nguyên nhân do tâm lý lứa tuổi muốn tự khẳng định mình; sự phát triển nhanh kinh tế thị trường, kéo theo tác động tiêu cực đến hình thành và phát triển nhân cách; những hành vi bạo lực xuất hiện nhiều trong đời sống xã hội. Về phía nhà trường, nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh còn hạn chế, chưa tạo lôi cuốn...

Đề cập tới các giải pháp, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cho biết ngành giáo dục chủ động đổi mới nội dung, phương pháp dạy, học, thi cử... đối với các môn liên quan tới giáo dục đạo đức công dân; tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; lồng ghép việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với cuộc vận động mỗi thầy giáo là tấm gương đạo đức, tấm gương tự học và sáng tạo...

Cùng với đổi mới phương pháp dạy học, Bộ trưởng cho biết sẽ chỉ đạo tăng cường các hoạt động ngoại khóa ngoài giờ lên lớp phù hợp với từng lứa tuổi, cấp học, từng địa phương theo từng chủ đề, giúp cho việc học văn hóa, rèn luyện sức khỏe hình thành nhân cách phối hợp đồng bộ với nhau...

Trả lời câu hỏi của các đại biểu về công tác chuẩn bị nhân lực, vật lực, đặc biệt là sử dụng các công trình phục vụ thể thao ở các thành phố lớn phục vụ cho ASIAD 2019, Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh khẳng định việc Việt Nam trở thành nơi đăng cai ASIAD 2019 là sự kiện không chỉ cử tri mà là vấn đề các nước khác quan tâm.

Bộ trưởng nhấn mạnh ý nghĩa của đăng cai ASIAD 2019 không chỉ về chính trị và ngoại giao mà có ý nghĩa về kinh tế, văn hóa. Sự kiện này cũng thể hiện việc tăng cường đầu tư của nhà nước cho thể thao cũng như tăng cường mở rộng đẩy mạnh phong trào thể thao quần chúng cũng như thể thao đỉnh cao. Bộ trưởng tin tưởng với kinh nghiệm đã tổ chức những lần Đại hội thể dục thể thao của Đông Nam Á và châu Á, Việt Nam sẽ tổ chức thành công ASIAD 2019.

Một số ý kiến đại biểu lo ngại số tiền chi cho đăng cai ASIAD lớn, Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh cho rằng đây là số tiền lớn trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn hiện nay, nhưng đăng cai ASIAD là cơ hội để Việt Nam quảng bá hình ảnh đất nước. Bộ trưởng tin tưởng có cách xử lý các khó khăn, đồng thời nhấn mạnh tới những thuận lợi Việt Nam có là hiện 80% cơ sở vật chất đang có đã đảm bảo sẵn sàng phục vụ ASIAD.

Về các biện pháp để phát huy các nhà thi đấu ở các địa phương, Bộ trưởng đề nghị mở rộng và tăng cường hơn nữa các loại hình thể thao và đặc biệt là thể thao vui chơi giải trí; tập huấn cho các huấn luyện viên, hướng dẫn viên... Bên cạnh đó, phải thành lập các liên đoàn, các hiệp hội để thu hút các người dân tham gia. Hiện Việt Nam có 45.000 câu lạc bộ thể thao, trong đó có 6.000 câu lạc bộ bóng đá, theo Bộ trưởng sẽ phải tăng số lượng này thêm lên.

Kết luận phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nêu rõ qua thảo luận, các đại biểu đều khẳng định văn hóa, thể thao và du lịch Việt Nam có nhiều tiến bộ, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đề nghị Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phối hợp với các ngành để có những biện pháp tích cực phát huy sức mạnh của nền văn hóa dân tộc; đồng thời khắc phục những tồn tại đã được các đại biểu Quốc hội nêu; có những giải pháp để nâng cao vị thế, tiềm năng du lịch Việt Nam, để du lịch Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh, với thương hiệu tốt, trở thành ngành kinh tế tác động tích cực vào nền kinh tế nước nhà.

Chiều 13-6, các đại biểu tiến hành chất vấn Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền.

Nội dung trả lời chất vấn của Bộ trưởng tập trung vào các nhóm vấn đề là giải pháp nhằm triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề giai đoạn 2011-2015; khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn; biện pháp tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động, việc xử lý các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trái phép, hướng giải quyết vấn đề người lao động Việt Nam làm việc bất hợp pháp tại nước ngoài; trách nhiệm quản lý nhà nước của ngành trong việc đẩy nhanh tiến độ xét duyệt hồ sơ người có công...

 

Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền trả lời chất vấn

Đánh giá về công tác dạy nghề trong thời gian qua, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền nhấn mạnh vấn đề dạy nghề cho lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng là một trong những mục tiêu của Đảng, Nhà nước. Công tác dạy nghề đã được quan tâm, đầu tư từ trước, tuy nhiên sau khi có Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020, lĩnh vực dạy nghề đã được tăng cường hơn.

Đối với vấn đề hiện nay số lượng trường nghề nhiều (hiện đã có trên 1.000 cơ sở dạy nghề, trong đó, có 800 cơ sở dạy nghề công lập) nhưng số học sinh học nghề còn ít, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đánh giá nguyên nhân là do tư tưởng của người dân về học nghề vẫn chưa được thông suốt. Người dân thường muốn thi vào các trường trung cấp chuyên nghiệp, đại học chứ chưa chú trọng đến việc vào học tại các trường dạy nghề, vì vậy tỷ lệ học sinh vào các trường dạy nghề chưa nhiều.

Bên cạnh đó, hiện nay có nhiều doanh nghiệp mới thành lập với nhiều ngành nghề mới trong khi các trường dạy nghề vẫn đang đào tạo những nghề thông thường.

Khẳng định trách nhiệm của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đối với việc đào tạo nghề chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho hay trong thời gian tới, Bộ sẽ tham mưu, đề xuất với Chính phủ sơ kết 3 năm đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đồng thời chỉ đạo hệ thống ngành dọc trực thuộc Bộ gắn công tác đào tạo nghề đối với thị trường lao động.

Theo Bộ trưởng, các cơ sở dạy nghề cũng cần hình thành bộ phận tư vấn, tiếp thị nhằm nắm được nhu cầu thị trường, để có thể dạy nghề phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp.

Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Minh Lâm (Long An) về việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Bộ trưởng Thị Hải Chuyền cho biết: Nước ta có hơn 70% người dân sống ở nông thôn, phần đông chưa qua đào tạo, vẫn làm việc bằng kinh nghiệm sẵn có. Để khai thác cơ sở vật chất sẵn có rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước, giúp người lao động có kỹ năng nghề nhất định.

Hiện nay, ở nông thôn đã xuất hiện nhiều sản phẩm dịch vụ, người lao động cần được đào tạo để làm các sản phẩm dịch vụ đó. Bên cạnh đó, vùng nông thôn cũng có rất nhiều làng nghề. Đáp ứng yêu cầu đào tạo đó, Chính phủ đã ban hành Quyết định 1956/QĐ-TTg về Phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. Để đánh giá việc thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức 3 Hội nghị tổng kết ở 3 vùng và trong tháng 6-2013 sẽ tổ chức tổng kết 3 năm thực hiện Quyết định nhằm rút kinh nghiệm trong việc thực hiện.

Trả lời chất vấn của đại biểu Lý Kiều Vân (Quảng Trị) về trách nhiệm quản lý người Việt Nam làm việc bất hợp pháp ở nước ngoài, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho biết hiện Việt Nam có 500.000 lao động đang làm việc ở nước ngoài, trong khi chỉ có 8 ban quản lý lao động ở các nước còn phần đông là do các cơ quan đại diện ngoại giao ở các nước có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã quy định rất rõ trách nhiệm của doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đúng hợp đồng, nếu có vấn đề thì doanh nghiệp đó phải tháo gỡ vấn đề với doanh nghiệp nước ngoài đã ký hợp đồng. Nếu không thực hiện được, doanh nghiệp có trách nhiệm phải báo với Đại sứ quán hoặc cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài để cùng phối hợp xem xét, giải quyết.

Vì vậy những năm gần đây, cơ quan quản lý đã can thiệp và cơ bản giải quyết được tình trạng người lao động Việt Nam không được thực hiện đầy đủ hợp đồng hoặc doanh nghiệp nước ngoài có việc làm không đúng.

Khẳng định Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động và doanh nghiệp nước sở tại để bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam, tuy nhiên Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đề nghị người lao động khi quyết định đi làm việc ở nước ngoài cần xem xét, tìm hiểu về doanh nghiệp xuất khẩu lao động và những quyền lợi của mình khi đi làm việc ở nước ngoài.

Về việc thí điểm đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tại 62 huyện nghèo, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho biết Bộ đã tổ chức cho 12.000 lao động đi học ngoại ngữ, văn hóa, phong tục tập quán của các nước để chuẩn bị cho việc đi xuất khẩu lao động. Đến nay đã có hơn 10.000 lao động tại các huyện nghèo đi làm việc tại nước ngoài. Tuy nhiên, có một số người lao động về trước thời hạn. Nguyên nhân của tình trạng này là do ý thức và sự chịu đựng của các lao động ở huyện nghèo đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa chưa được tốt. Khi đi khảo sát tại Malaysia, nhiều chủ lao động phàn nàn về ý thức kỷ luật của người lao động ở vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sẽ lựa chọn số lao động ở các huyện nghèo, nếu chưa đủ điều kiện cũng không thể đi xuất khẩu lao động được.

Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sẽ điều chỉnh những bất hợp lý trong việc thực hiện Quyết định 71/2009/QĐ-TTg phê duyệt đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020.

Chia sẻ với những khó khăn mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phải đối mặt và giải quyết tình hình lao động bất hợp pháp tại các tỉnh vùng biên, song đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Lạng Sơn) băn khoăn trước thực trạng lao động bất hợp pháp qua biên giới phía Bắc tiếp tục gia tăng với số lượng lớn, chủ yếu là đồng bào ở vùng biên giới nghèo. Họ gặp rất nhiều rủi ro, bất lợi do thiếu hành lang pháp lý bảo vệ. Đại biểu cho rằng trong điều kiện thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm từ 5-6 tháng/năm, cử tri cần một chính sách thực sự hiệu quả hơn những gì đã có. "Bộ có tính tới chính sách đột phá, đặc thù cho khu vực này không, việc phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong giải quyết vấn đề này như thế nào?" .

Giải đáp về vấn đề này, Bộ trưởng cho biết: vấn đề lao động bất hợp pháp đã diễn ra từ nhiều năm nay và gần đây vẫn gia tăng, cho dù có tìm được việc làm nhưng thu nhập của người lao động là rất thấp, quyền lợi không được bảo đảm. Để bảo đảm đời sống và tín mạng của người lao động, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước là phải phối hợp giữa hai nước, chính quyền hai địa phương có quy định để quản lý số lao động này, làm sao họ vẫn đến được với nhau do yêu cầu công việc nhưng cuộc sống của họ phải bảo đảm, không bị ảnh hưởng. Tới đây, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ liên quan họp, đề xuất hướng đi tốt nhất để quản lý các lao động này cho tốt hơn.

Nhận trách nhiệm của Bộ trong chậm ban hành Thông tư hướng dẫn Nghị định 31/2013/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng trước chất vấn của đại biểu Phương Thị Thanh (Bắc Kạn), Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền khẳng định ngay từ khi có Nghị định 31/2013/NĐ-CP, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã chuẩn bị nội dung của Thông tư hướng dẫn và đang xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương.

Bộ cũng đã tiến hành tập huấn, hướng dẫn đối với cán bộ địa phương thực hiện Pháp lệnh, giải quyết các tồn đọng. Tuy nhiên, do Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung thêm đối tượng và nhiều chính sách mới, phải lấy ý kiến của nhiều bộ, ngành dẫn đến chậm trễ trong việc ban hành hướng dẫn. Bộ sẽ rút kinh nhiệm trong thời gian tới.

Trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Văn Rinh (Hải Dương) về tiến độ xét duyệt công nhận cho người tham gia kháng chiến và con cháu của họ được hưởng chính sách ưu đãi người có công theo mục tiêu đến năm 2015, 100% đối tượng được thụ hưởng, Bộ trưởng cho biết sẽ cố gắng hoàn thành trách nhiệm này.

Để làm tốt việc này, Bộ đã làm việc với Hội nạn nhân chất độc da cam với mong muốn các tổ chức cùng tham gia tìm hướng tích cực nhất để giải quyết số hồ sơ tồn đọng. Nhằm tạo điều kiện cho các đối tượng sớm được thụ hưởng chính sách, nhiều khâu thủ tục đã được đơn giản hóa và giảm bớt, người dân không phải mất nhiều thời gian và công sức đi lại. Nếu tích cực chỉ đạo và có sự chung tay của cả hệ thống chính trị, đến năm 2015 cơ bản sẽ giải quyết xong chính sách đối với đối tượng tham gia kháng chiến và người thân của họ.

Trước băn khoăn của nhiều đại biểu về tình trạng thương bệnh binh giả, làm giả hồ sơ nạn nhân chất độc da cam để trục lợi, gây tổn thất cho ngân sách và bức xúc trong xã hội, Bộ trưởng cho biết trên cơ sở thông tin, kiến nghị của cử tri cả nước, Bộ đã tiến hành các đợt thanh tra việc thực hiện chính sách. Qua thanh tra đã phát hiện một bộ phận liên quan đến việc làm hồ sơ thương bệnh binh giả tại Quân khu I và những sai phạm về hồ sơ bệnh án để hưởng chính sách nạn nhân chất độc da cam, các hồ sơ này đã được chuyển sang cơ quan điều tra để làm rõ và khởi tố.

Theo báo cáo, đến nay các tỉnh đã thanh tra trên 1.400 cuộc và thu hàng nghìn tỷ đồng, ngành lao động cũng đã thu lại gần 600 tỷ đồng sau thanh tra./.