Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững

ThS. Bùi Thanh Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
21:36, ngày 28-04-2013
TCCSĐT - Biến đổi khí hậu trở thành một trong những thách thức lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thay đổi hành vi, thái độ ứng xử, mô hình tiêu thụ theo hướng hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường, hướng tới nền kinh tế xanh và phát triển bền vững là lối thoát để con người vượt qua thách thức này.


Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) xác định: “Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của hoạt động con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu, được quan sát trên một chu kỳ thời gian dài”.

Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu toàn cầu là do sự gia tăng các hoạt động của con người làm phát thải quá mức khí nhà kính vào khí quyển, khai thác quá mức các bể hấp thu và bể chứa khí nhà kính, như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác.

Từ giữa thế kỷ XX, đặc biệt từ những năm 1980 trở lại đây, hoạt động của con người làm gia tăng nồng độ khí nhà kính trong khí quyển dẫn đến nhiệt độ Trái đất tăng lên (sự nóng lên toàn cầu). Sự nóng lên toàn cầu là rất rõ ràng với những biểu hiện của sự tăng nhiệt độ không khí và đại dương, sự tan băng diện rộng, hệ quả là mực nước biển trung bình toàn cầu dâng cao. Trong 100 năm (1906 - 2005), nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng khoảng 0,740C, tốc độ tăng nhiệt độ trong 50 năm gần đây gấp đôi so với 50 năm trước đó. Kết quả tính toán của các mô hình khí hậu toàn cầu dựa trên mối liên hệ giữa phát thải khí nhà kính và sự gia tăng nhiệt độ (được nêu trong Báo cáo gần đây nhất của IPCC)(1) cảnh báo nhiệt độ Trái đất vào cuối thế kỷ XXI có thể sẽ tăng từ 1,10C đến 6,40C.

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biển đổi khí hậu, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước biển dâng. Biến đổi khí hậu đang hiện hữu ở nước ta và nguy cơ tác động ngày càng lớn hơn. Trong những năm qua, dưới tác động của biến đổi khí hậu, tần suất và cường độ thiên tai ngày càng gia tăng, gây tổn hại nặng nề về người, tài sản, hệ thống hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường. Chỉ tính trong 15 năm trở lại đây, các loại thiên tai, như bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn và các thiên tai khác ở nước ta đã làm chết và mất tích hơn 10.711 người, thiệt hại về tài sản ước tính bằng khoảng 1,5% GDP/năm.

Biến đổi khí hậu đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp: diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, đặc biệt là một phần đáng kể ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng và các vùng đất thấp ven biển bị ngập mặn do nước biển dâng, tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng; ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng, tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm.

Biến đổi khí hậu, với những tác động ngày một gia tăng và khó lường ở nhiều lĩnh vực, địa phương sẽ làm tăng mức độ cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường; làm chậm quá trình phát triển kinh tế - xã hội hoặc hủy hoại nhiều thành quả đã đạt được. Các nguy cơ, rủi ro do biến đổi khí hậu cần phải được tính đến trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa phương.

Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu: những kết quả tích cực

Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân về biến đổi khí hậu, về tác động của biến đổi khí hậu đã có chuyển biến tích cực

Việc nâng cao nhận thức cho các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân được xác định là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu được triển khai nhân ngày Khí tượng và nước thế giới, ngày Môi trường thế giới, chiến dịch Giờ trái đất và được tuyên truyền thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Qua công tác tuyên truyền, giáo dục, các ngành, các cấp đã có những nhận thức, kiến thức ban đầu về biến đổi khí hậu, về tác động của biến đổi khí hậu và nguy cơ tác động ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến ngành, địa phương mình. Một số bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành và triển khai thực hiện chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động nghiên cứu, lồng ghép vấn đề biến đổi khí hậu vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và huy động nguồn lực để ứng phó với biến đổi khí hậu được xây dựng, không ngừng hoàn thiện

Một số vấn đề, nội dung liên quan đến biến đổi khí hậu đã được quy định trong các văn bản luật và văn bản hướng dẫn thi hành luật.

Từ những chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã sớm xây dựng, ban hành các văn bản chính sách, quy phạm pháp luật, từng bước hình thành hành lang pháp lý, môi trường chính sách cho công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, như Chiến lược quốc gia Phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020; Chiến lược Phát triển ngành Khí tượng Thủy văn đến năm 2020; Chiến lược Phát triển Thủy lợi đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược Tăng trưởng xanh; Luật Đê điều; Luật Tài nguyên nước; Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão; Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ các công trình thủy lợi; Pháp lệnh Bảo vệ công trình khí tượng thủy văn.

Đặc biệt, ngày 05-12-2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và sau đó là Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu.

Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, cơ quan điều phối quốc gia về biến đổi khí hậu đã được thành lập ở Trung ương

Ở Trung ương, Bộ Tài nguyên và Môi trường được Chính phủ giao làm cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu. Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường có Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu là cơ quan chuyên môn, giúp Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện quản lý, điều phối các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương, Ủy ban quốc gia về tìm kiếm cứu nạn, các cơ cấu tổ chức về phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai ở các địa phương cũng được kiện toàn, bổ sung theo hướng phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu.

Để tăng cường công tác chỉ đạo, điều phối liên ngành thực hiện các chiến lược, chương trình, đề án, dự án liên quan đến biến đổi khí hậu, Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu được thành lập, Bộ Tài nguyên và Môi trường là Cơ quan thường trực của Ủy ban.

Nhà nước đã quan tâm đầu tư và bước đầu hình thành cơ chế huy động nguồn lực từ hợp tác quốc tế và từ xã hội để ứng phó với biến đổi khí hậu

Nhà nước đã ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách cho các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu và nghiên cứu khoa học, công nghệ về biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng ưu tiên huy động vốn vay ưu đãi và khai thác nguồn hỗ trợ không hoàn lại từ các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế cho ứng phó với biến đổi khí hậu từ năm 2010 đến nay đạt trên 500 triệu USD.

Hằng năm, Nhà nước ưu tiên và tăng dần nguồn đầu tư từ ngân sách cho công tác phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai, các chương trình mục tiêu cụ thể, như trồng rừng, nâng cấp hệ thống đê điều, hồ chứa nước, phòng chống sạt lở, sống chung với lũ, an toàn cho tàu thuyền. Nhà nước cũng bố trí một tỷ lệ ngân sách nhất định và dự trữ một số vật tư thiết yếu để cứu trợ khẩn cấp, nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai. Các địa phương đã huy động tốt nguồn lực tại chỗ, tranh thủ đóng góp, tham gia của người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, từ thiện trong công tác cứu trợ và khắc phục hậu quả thiên tai.

Hợp tác và hội nhập quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu có bước phát triển nhanh và đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, xây dựng được hình ảnh Việt Nam tích cực ứng phó với biến đổi khí hậu trên trường quốc tế

Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện các nghĩa vụ của nước thành viên Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto; đóng vai trò ngày càng tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn, hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu. Việt Nam cũng tham gia tích cực vào các tổ chức giảm nhẹ thiên tai khu vực và toàn cầu, như Trung tâm giảm nhẹ thiên tai châu Á (ADRC), Trung tâm phòng ngừa thiên tai châu Á (ADPC), Ủy ban quản lý thiên tai ASEAN (ACDM), Ủy ban bão (TC), Đối tác giảm nhẹ thiên tai (NDM-P),...

Sự nỗ lực trong xây dựng chính sách và việc tham gia tích cực của nước ta với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu đã được nhiều tổ chức quốc tế và chính phủ các nước đánh giá cao và hỗ trợ.

Một số hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu đã được triển khai thực hiện và đạt kết quả bước đầu

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam (vào tháng 6-2009, cập nhật vào tháng 3-2012). Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện việc đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu cho các giai đoạn tiếp theo.

Nhiều bộ, ngành, địa phương đã thực hiện các chương trình, dự án đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến ngành mình, địa phương mình, những địa bàn, khu vực làm căn cứ để xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, như: đánh giá tác động của biến đổi khí hậu tới lĩnh vực nông nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, công trình quân sự trên các vùng biển, hải đảo, sinh kế của người dân ở vùng dễ bị tổn thương và sinh kế người nghèo toàn quốc; các khu kinh tế ven biển, các lĩnh vực kinh tế, xã hội của từng địa phương.

Hoạt động phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai được tăng cường, có bước tiến phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu

Hệ thống quan trắc và dự báo khí tượng thủy văn từng bước được đầu tư, nâng cấp thông qua Đề án hiện đại hóa công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn. Đến nay, một số công nghệ dự báo hiện đại đã được đưa vào sử dụng, nhờ đó tăng thời gian dự báo bão và áp thấp nhiệt đới từ 24 giờ lên 36 giờ, dự báo cơn bão có quỹ đạo ổn định trước từ 60 giờ đến 72 giờ, cảnh báo trước 48 giờ đến 72 giờ các đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại.

Công tác phòng chống thiên tai được triển khai theo phương châm “4 tại chỗ” đã tính đến tác động của biến đổi khí hậu. Các nội dung phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai đã được lồng ghép trong xây dựng, triển khai các quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, của các ngành, các vùng và địa phương, đặc biệt trong điều chỉnh cơ cấu cây trồng, mùa vụ, kỹ thuật canh tác đối với vùng nông nghiệp. Nhà nước cũng cung cấp trang thiết bị cho các hộ nghèo ven biển để nắm bắt thông tin, chủ động phòng tránh.

Tiết kiệm năng lượng, phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới và các hoạt động giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu được thúc đẩy thực hiện

Trong các năm từ 2006 - 2010, cả nước đã tiết kiệm được 4.039 triệu KWh điện, riêng năm 2010 ước tính tiết kiệm được khoảng 1.183,91 triệu KWh. Theo tổng kết của Bộ Công Thương, trong 5 năm từ 2006 - 2010, cả nước đã tiết kiệm được 3,4% tổng năng lượng tiêu thụ, tương đương với 56,9 tỷ KWh hoặc gần 35,3 triệu thùng dầu thô.

Cả nước hiện có tổng số 1.097 dự án thủy điện quy mô các loại đã được quy hoạch với tổng công suất khoảng 24.000 MW. Trong số này có khoảng 40% số dự án đã được triển khai, chiếm khoảng 75% công suất thiết kế. Các dự án đã đi vào hoạt động, sản xuất khoảng 36% sản lượng điện của cả nước, riêng sản lượng năm 2011 đạt khoảng 40 tỷ KWh. Đã triển khai một số dự án điện gió ở Bình Thuận, Cà Mau và chương trình sử dụng thiết bị đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời. Đến nay có 5 nhà máy sản xuất cồn ethanol để phục vụ sản xuất xăng sinh học đã và đang được xây dựng với tổng công suất lên tới gần 500 triệu lít/năm. Xăng E5 (95% xăng + 5% ethanol) cũng bắt đầu được tiêu thụ trên thị trường. Các chương trình phát triển hầm khí sinh học từ chất thải trong chăn nuôi cũng được thực hiện. Số hộ nông dân dùng khí sinh học chiếm khoảng 10%, giai đoạn 2004 - 2012 đã có khoảng 600.000 công trình khí sinh học được đưa vào sử dụng.

Việt Nam đã triển khai thực hiện 160 dự án theo cơ chế phát triển sạch (CDM) được Nghị định thư Kyoto quy định, với tổng số chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính (CER) được cấp đạt khoảng 7 triệu CER, đứng thứ 4 trên thế giới về số lượng dự án và đứng thứ 9 về tổng số CER được cấp.

Hạn chế, bất cập

Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân chưa nhận thức đầy đủ về biến đổi khí hậu, tác động của biến đổi khí hậu, nên chưa có sự quan tâm đúng mức và chưa có ý thức chủ động ứng phó

Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân vẫn chưa nhận thức rõ được tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội, ngành mình, địa phương mình. Biến đổi khí hậu thường được hiểu gắn liền với thiên tai, bão, lũ, đôi khi gắn với cả những thiên tai không có liên quan trực tiếp đến biến đổi khí hậu như động đất, sóng thần.

Ứng phó với biến đổi khí hậu mới chỉ được hiểu là tập trung vào phòng, tránh và khắc phục hậu quả thiên tai, chưa nhận thức được cần chủ động thích ứng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Trong phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai còn tư tưởng ỷ lại, thiếu chủ động, chủ quan, thiếu kinh nghiệm.

Chưa nhận thức được tăng trưởng xanh, phát triển cac-bon thấp là cơ hội để thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững và do vậy các hành vi, lối sống, mô hình tiêu thụ chưa được được điều chỉnh.

Mặc dù biến đổi khí hậu là thách thức sống còn đối với toàn nhân loại, nhưng một bộ phận không nhỏ cán bộ, người dân vẫn nghi ngờ về biến đổi khí hậu và nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu.

Chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu đang trong quá trình hình thành, do vậy còn thiếu, chắp vá, chưa đồng bộ

Mặc dù đã có Chiến lược, Kế hoạch hành động quốc gia nhưng vẫn còn thiếu các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể để thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng về ứng phó với biến đổi khí hậu.

Một số chủ trương, định hướng của Đảng liên quan đến biến đổi khí hậu do được đề cập trong nhiều văn bản chuyên ngành, trong các thời kỳ khác nhau, nên còn thiếu tính đồng bộ, toàn diện, thậm chí chồng chéo và chỉ chú trọng công tác phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai, chưa đề cập đúng mức tới chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Chưa có chính sách phù hợp thúc đẩy giảm thải khí nhà kính như là một cơ hội về phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Chính sách, pháp luật trong giảm phát thải khí nhà kính chưa đủ mạnh, chưa thể hiện được định hướng giảm phát thải khí nhà kính trong các lĩnh vực có tiềm năng ở Việt Nam, như sử dụng năng lượng, nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng, phát triển năng lượng tái tạo,...

Trong phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, Nhà nước chưa có chế tài đủ mạnh xử lý trường hợp không thực hiện quy định của pháp luật; chưa có chính sách khuyến khích tham gia bảo hiểm về thiên tai. Một số chính sách huy động nguồn lực đã có nhưng chưa được bổ sung, điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu.

Nội dung, phương thức, mô hình quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu chưa rõ nên quản lý nhà nước còn nhiều bất cập

Tổ chức quản lý nhà nước, cơ chế điều phối liên ngành mới chỉ được thành lập ở Trung ương và ở một số địa phương, chưa phát huy nhiều hiệu quả. Đến nay, chưa có tổ chức, bộ phận hoặc có cán bộ chuyên trách về ứng phó với biến đổi khí hậu ở các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là ở những lĩnh vực, địa bàn dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Còn thiếu các quy định cụ thể để giải quyết các vấn đề liên ngành, liên vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai ở Trung ương và địa phương chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới các tổ chức, đơn vị nghiên cứu, tư vấn, dịch vụ về biến đổi khí hậu chưa được hình thành hoặc còn yếu, chưa phát huy tác dụng.

Đầu tư từ ngân sách nhà nước và cơ chế huy động nguồn lực để ứng phó với biến đổi khí hậu còn bất cập, hiệu quả thấp

Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp, thuận lợi để khuyến khích, huy động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư để ứng phó với biến đổi khí hậu trên cơ sở mang lại lợi ích cho nhà đầu tư và xã hội. Vì vậy, chưa huy động được các nguồn lực từ doanh nghiệp và cộng đồng cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Còn nhiều bất cập về cơ chế tài chính, thủ tục hành chính trong tiếp nhận và quản lý nguồn vốn ứng phó với biến đổi khí hậu, nên chưa tạo ra một môi trường pháp lý hấp dẫn với các nhà tài trợ quốc tế, khối doanh nghiệp và tư nhân đầu tư giảm nhẹ biến đổi khí hậu ở Việt Nam.

Việc huy động nguồn lực từ các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các nước, khai thác nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), cũng như huy động các nguồn hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ cho ứng phó với biến đổi khí hậu chưa hiệu quả. Đầu tư cho phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai còn dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu. Chưa cân đối được nguồn lực từ ngân sách cho một số dự án trọng điểm, đặc biệt là chương trình nâng cấp đê sông, đê biển, an toàn hồ chứa.

Mối quan hệ hợp tác, đối tác quốc tế, mặc dù đã thiết lập và duy trì được một số mối quan hệ, song chủ yếu còn ở phạm vi hẹp, ngắn hạn. Các cơ chế, thể chế tài chính có tầm chiến lược, dài hạn chưa được thiết lập để đón đầu, thu hút nguồn lực tài chính và sự hỗ trợ công nghệ từ đối tác về biến đổi khí hậu toàn cầu.

Khoa học và công nghệ chưa có nhiều đóng góp thiết thực, đột phá cho ứng phó với biến đổi khí hậu

Các kết quả nghiên cứu khoa học chưa cung cấp đầy đủ luận cứ cho việc hoạch định chính sách, pháp luật về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Hoạt động nghiên cứu và triển khai còn hạn chế, chưa hiệu quả. Thị trường chuyển giao công nghệ về biến đổi khí hậu chưa được hình thành. Năng lực, trình độ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tiết kiệm năng lượng, năng lượng mới, năng lượng tái tạo còn hạn chế. Công tác nghiên cứu cơ bản về biến đổi khí hậu chưa được quan tâm đúng mức.

Các nhiệm vụ, hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu (cả thích ứng và giảm nhẹ) chỉ mới được triển khai bước đầu; công tác phòng tránh thiên tai cũng còn nhiều bất cập, chưa tính đến đầy đủ các tác động của biến đổi khí hậu.

Mặc dù đã được quan tâm đầu tư trong thời gian gần đây, nhưng hệ thống mạng lưới các trạm khí tượng thủy văn, giám sát khí hậu còn thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu. Khả năng dự báo, cảnh báo còn hạn chế, thời gian dự báo so với các nước tiên tiến còn ngắn hạn, độ chính xác chưa cao, thông tin dự báo chưa đáp ứng yêu cầu cho phát triển kinh tế - xã hội, ứng phó với biến đổi khí hậu và sự chủ động phòng tránh của người dân.

Công tác phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai chỉ mới tập trung vào ứng phó và khắc phục hậu quả mà ít chú trọng đến chủ động phòng tránh. Việc phối hợp giữa Trung ương và địa phương chưa hiệu quả, chưa chủ động phát huy nội lực của ngành mình, địa phương mình. Kết cấu hạ tầng phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai còn thiếu và yếu.

Các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính trong thời gian qua vẫn chưa được đẩy mạnh. Cơ hội chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, phương thức phát triển theo hướng các-bon thấp, bền vững và hội nhập quốc tế chưa được tận dụng tốt.

Năng lượng sạch, năng lượng tái tạo vẫn chưa được quan tâm phát triển tương xứng với tiềm năng. Tính đến năm 2012, việc khai thác năng lượng tái tạo ở Việt Nam mới chỉ đạt tổng công suất khoảng 550 MW, chủ yếu là thủy điện nhỏ và sinh khối; điện gió, điện mặt trời quy mô còn nhỏ với tổng công suất lắp đặt khoảng 10 MW.

Hoạt động sử dụng tiết kiệm hiệu quả năng lượng, dù đã đạt được một số kết quả, song cũng chưa tương xứng với tiềm năng, chưa được như mong đợi. Mức tiêu hao năng lượng của Việt Nam trên một đơn vị GDP cao hơn các nước trong khu vực từ 1,37 lần (Thái Lan) đến 4,65 lần (Hồng Kông).

Mục tiêu đặt ra trong ứng phó với biến đổi khí hậu

- Về thích ứng với biến đổi khí hậu: nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai; đánh giá được các nguy cơ thiên tai; nâng cao năng lực và lồng ghép phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện của các vùng, miền; nâng cao nhận thức, hình thành ý thức thường trực ứng phó với biến đổi khí hậu của các ngành, các cấp, cộng đồng dân cư và người dân; nâng cao khả năng thích ứng của hệ thống hạ tầng, công trình thủy lợi, kinh tế - xã hội, cộng đồng dân cư trước tác động của biến đổi khí hậu, trước hết cho các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực TP. Hồ Chí Minh, dải ven biển miền Trung và khu vực Đồng bằng sông Hồng; bảo đảm 100% chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực và vùng được xây dựng, cập nhật, bổ sung có tính đến các yếu tố biến đổi khí hậu.

- Về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính: giảm cường độ phát thải khí nhà kính trong các ngành, lĩnh vực 8% - 10% so với năm 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên đơn vị GDP từ 1% - 1,5% mỗi năm, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% - 20% so với phương án phát triển thông thường; năng lượng mới và tái tạo chiếm từ 5% - 7% trong cơ cấu năng lượng chung; đưa giảm phát thải và hấp thụ khí nhà kính thành các chỉ tiêu trong phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng được thị trường tín chỉ các-bon trong nước và tích cực tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon quốc tế.

Các giải pháp trọng tâm

a) Thích ứng với biến đổi khí hậu

- Xây dựng và phát triển năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai

Mở rộng, phát triển, hiện đại hóa hệ thống quan trắc và dự báo khí tượng thủy văn theo hướng kết hợp quan trắc, dự báo khí tượng thủy văn với giám sát, cảnh báo khí hậu.

Tăng cường phát triển hệ thống thông tin và dữ liệu về khí hậu và biến đổi khí hậu phục vụ hoạch định chính sách và triển khai thực hiện các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tiếp tục cập nhật, hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu công bố trước kỳ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để lồng ghép, điều chỉnh kế hoạch kịp thời.

Xây dựng bản đồ nguy cơ ngập do nước biển dâng, bản đồ rủi ro thiên tai theo các kịch bản biến đổi khí hậu, công bố công khai, phổ biến, gắn với hệ thống thông tin địa lý, thông tin viễn thám.

- Xây dựng và phát triển năng lực chủ động phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai phù hợp với điều kiện từng vùng, miền trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Củng cố, nâng cấp, xây mới các đoạn đê biển, đê sông xung yếu, phát triển rừng chắn sóng, chắn cát, rừng ngập mặn ven biển để phát huy vai trò “lá chắn tự nhiên”, bảo đảm chống chịu được với thiên tai theo kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ven biển.

Chủ động phòng chống lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán cho vùng núi, cao nguyên thông qua việc điều tiết cắt giảm lũ, điều tiết dòng chảy, trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn và các giải pháp khác.

Triển khai thực hiện Chương trình Đồng bằng sông Cửu Long và Chương trình Đồng bằng sông Hồng về quản lý tài nguyên nước; xây dựng quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước cho các lưu vực sông lớn, chủ động phòng, tránh lũ, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Tổng kết thực tiễn để hoàn thiện, phát triển phương châm “4 tại chỗ” trong phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu.

Hình thành ý thức thường trực phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai của các cấp, các ngành và mọi người dân, đặc biệt là ở các vùng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu.

Từng bước hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa lực lượng tìm kiếm cứu nạn từ Trung ương tới địa phương.

Tăng cường năng lực và sự tham gia của cộng đồng, chú trọng các kinh nghiệm ứng phó tại chỗ, vai trò của các tổ chức quần chúng ở cơ sở; phát triển, nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm truyền thống trong thích ứng với biến đổi khí hậu.

- Nâng cao năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu của hệ thống hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - xã hội quốc gia, địa phương và của cộng đồng.

Rà soát quy hoạch xây dựng, chỉnh trang đô thị, khu dân cư; cải tạo, nâng cấp hệ thống hạ tầng; phục hồi, phát triển các hệ sinh thái tự nhiên phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu

Xây dựng tiêu chí và tiến hành đánh giá, phân nhóm cộng đồng dân cư, các hệ sinh thái tự nhiên theo mức độ dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu và có các phương án phù hợp xây dựng năng lực thích ứng.

Rà soát, điều chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - xã hội, khu đô thị, khu dân cư, quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng phù hợp với các kịch bản biến đổi khí hậu.

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phương thức canh tác phù hợp, ứng dụng công nghệ sinh học, quy trình sản xuất tiên tiến, tăng cường hệ thống phòng chống và kiểm soát dịch bệnh phù hợp với đặc điểm sinh thái của các vùng và địa phương nhằm chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Xây dựng và thực hiện các phương án cải tạo, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - xã hội, khu đô thị, khu dân cư; rà soát hiện trạng, xây dựng và triển khai các giải pháp công trình và phi công trình nhằm chống ngập úng cho các đô thị, khu dân cư phù hợp với các kịch bản biến đổi khí hậu.

Nâng cao khả năng thích ứng của các hệ thống hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - xã hội, cộng đồng và phát huy kinh nghiệm truyền thống, kiến thức bản địa trong thích ứng với biến đổi khí hậu.

Triển khai thực hiện Chương trình quản lý tài nguyên nước, đất, rừng ngập mặn và thích ứng với biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng; xây dựng quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước cho các lưu vực sông lớn.

Chuyển đổi sinh kế, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, tăng cường hệ thống bảo hiểm rủi ro trong nông nghiệp, đặc biệt là các vùng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu.

b) Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của đất nước theo hướng các-bon thấp

- Kiểm kê khí nhà kính và thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước và tham gia hiệu quả thị trường các-bon toàn cầu

Xây dựng hệ thống kiểm kê khí nhà kính cấp quốc gia; bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách cho kiểm kê khí nhà kính định kỳ; xây dựng kịch bản phát thải cơ sở đến năm 2020 cho các lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, quản lý sử dụng đất và chất thải.

Ðánh giá các tiềm năng, cơ hội giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện, mục tiêu phát triển bền vững của đất nước; xây dựng và triển khai kế hoạch hành động quốc gia, kế hoạch ngành về giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA) và hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định cắt giảm phát thải khí nhà kính (MRV) cấp quốc gia và cấp ngành.

Chuẩn bị các điều kiện cần thiết và xác định các cơ sở pháp lý để tiến tới việc hình thành, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon toàn cầu.

- Thúc đẩy sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, phát triển và sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo trong công nghiệp, xây dựng và giao thông vận tải

Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng các-bon thấp, tái cấu trúc các ngành kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu tốn ít năng lượng; từng bước hạn chế phát triển các nhóm ngành kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế thấp.

Đẩy mạnh thực hiện các chương trình tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, nghiên cứu, ứng dụng đổi mới công nghệ trong các ngành, lĩnh vực, đời sống dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội.

Xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược quốc gia, chương trình, dự án về phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học, năng lượng mới; từng bước dỡ bỏ các rào cản và tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới.

- Đẩy mạnh hành động giảm phát thải khí nhà kính và tăng cường các bể hấp thu khí nhà kính

Đẩy mạnh các biện pháp kỹ thuật canh tác nông nghiệp bền vững nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp.

Triển khai các quy hoạch, phương án, công nghệ quản lý, xử lý chất thải và tái sử dụng nước thải nhằm giảm phát thải khí nhà kính.

Thay đổi phương thức canh tác nông nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, bảo đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và xóa đói giảm nghèo.

Chủ động, tích cực đàm phán, thu hút nguồn lực thực hiện thành công Chương trình hành động quốc gia về REDD+ và tham gia thị trường các-bon thế giới.

Đẩy mạnh tái sinh và trồng rừng ngập mặn ven biển; bảo vệ các đồng cỏ tự nhiên, các hệ sinh thái biển, các bể hấp thụ các-bon trong tự nhiên;...

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI, đã và đang tác động mạnh đến nước ta, dự báo sẽ ngày càng lớn và phức tạp. Biến đổi khí hậu làm thay đổi nhận thức về mô hình phát triển, mô hình tiêu thụ, thái độ ứng xử, buộc con người phải nhìn nhận lại hành vi, thái độ của mình đối với thiên nhiên, môi trường đồng thời phải thay đổi để tồn tại và phát triển bền vững. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thay đổi hành vi, thái độ ứng xử, mẫu hình tiêu thụ theo hướng hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường, hướng tới nền kinh tế xanh và phát triển bền vững đang được xem là lối thoát duy nhất đề con người vượt qua được thách thức lớn chưa từng có trong lịch sử tồn tại của mình. Ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu là vấn đề sống còn đối với Việt Nam./.

------------------------------------------------------------------

Chú thích:

(1) Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) do Tổ chức Khí tượng thế giới và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc thành lập năm 1988, là một cơ quan khoa học chịu trách nhiệm đánh giá rủi ro về biến đổi khí hậu do hoạt động của con người gây ra, với sự tham gia của hơn 500 nhà khoa học và khoảng 2.000 chuyên gia đến từ các nước trên thế giới.

(2) Theo Báo cáo của Ban chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương

(3) Theo báo cáo của Cục Quản lý đê điều và phòng chống lụt bão.