Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng chống tham nhũng đến cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI

Nguyễn Như Hùng - ThS. Trần Mai Ước Tạp chí Cộng sản - Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
21:44, ngày 01-03-2013
TCCSĐT - Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã nêu rõ: Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành. Từ đó, kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI cũng đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp và tổ chức thực hiện để đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong bối cảnh hiện nay.

Bài viết tập trung phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, từ đó suy nghĩ và đưa ra những giải pháp cơ bản hướng đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI.

1. Hiện nay, tham nhũng đã trở thành vấn đề chung của toàn cầu, không phân biệt sắc tộc, văn hoá và chế độ xã hội. Việc ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng đã được nhiều quốc gia xác định thành mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở nước ta, tham nhũng đã, đang và sẽ là kìm hãm lớn đến sự phát triển kinh tế của đất nước, làm xói mòn giá trị đạo đức, văn hoá gia đình và xã hội. Điều đáng lo ngại là tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt. Đặc biệt, “tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống,… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi”(1) đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân, làm sai lệch các chủ trương, chính sách của Đảng, dẫn đến nguy cơ chệch định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước,… 

2. Ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm nhiều và sớm cảnh báo về tình trạng tham nhũng, lãng phí trong bộ máy công quyền và coi trọng công tác phòng, chống. Người đã chỉ rõ: tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, và của Chính phủ, là “giặc ở trong lòng”, là “giặc nội xâm” và là tội ác, làm hỏng tinh thần và phá hoại đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng là bộ phận hợp thành quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng được thể hiện rất đa dạng và phong phú, nhưng về cơ bản được thể hiện qua một số nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, muốn thức tỉnh quần chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng cần tập trung đấu tranh, tố cáo tham nhũng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra bản chất, nguồn gốc nguyên nhân phát sinh, phát triển của tham nhũng, quan liêu cũng như tính phức tạp của cuộc đấu tranh phòng, chống các tệ nạn này. Ngay khi còn đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Người đã công khai vạch trần, lên án nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền thực dân ở Việt Nam. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân pháp” Người đã dành hẳn một chương để viết về nạn tham nhũng trong bộ máy cai trị, trong đó vạch trần những hành vi tham nhũng của những kẻ luôn tự xưng là “Quan phụ mẫu” của dân. Người viết: “Trong cái xứ này, do thiếu sót hay nói đúng hơn do ý định của Chính phủ, nên đâu đâu từ trên xuống dưới cũng đều có nạn tham nhũng mua quan bán tước”(2). Người đã chỉ ra thói phung phí tiền của dân cho việc tham quan, triển lãm, ăn uống, tiếp khách, giải trí mua sắm biệt thự, xe cộ và những thủ đoạn nhằm rút tiền từ việc nhận thầu các công trình xây dựng, làm đường, khai man để chi tiêu, sử dụng vào làm việc riêng. Chính thói tham lam, xa hoa, vô độ của bọn cai trị đã làm cho những gánh nặng thuế khóa trên đôi vai của người dân thuộc địa càng trĩu xuống và buộc họ phải đấu tranh lật đổ chế độ cai trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tệ tham ô, lãng phí vốn là căn bệnh “tứ chứng nan y” của mọi nhà nước và bất kỳ một nhà nước nào nếu như mà các hoạt động của nó không được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thì khó tránh khỏi tình trạng tham ô, lãng phí.

Theo cách nói của Người, tham ô chính là trộm cướp, là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Người cán bộ mà tham ô chính là “ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình”(3). Nguyên nhân của tham ô chính là do thiếu lương tâm và kém lòng trách nhiệm: “cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”(4). Lãng phí, theo Bác chính là lãng phí sức lao động, thì giờ, tiền của của Nhà nước, cơ quan và bản thân mình. Cụ thể là: “Ăn tiêu xa xỉ, liên hoan, sắm sửa lu bù, xài tiền như nước. Ví dụ, như Ngân hàng không khéo sử dụng tiền bạc, để tiền bạc ứ đọng lại, không bổ ích cho việc tăng gia sản xuất; cơ quan kinh tế làm kế hoạch không thiết thực, không sát với hoàn cảnh, để Chính phủ phải lỗ vốn. Làm một cái nhà không hợp thức, làm xong tồi phải phá đi làm lại. Lãng phí có khi còn hại nhiều hơn tham ô, vì lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”(5).

Chống tham ô, lãng phí là vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm và đã trở thành một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên nhân sâu xa dẫn đến căn bệnh tham ô, lãng phí, đó là chủ nghĩa cá nhân. Người nói: Chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, nảy sinh ra các bệnh nguy hiểm như lười biếng, ngại gian khổ, khó khăn, tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa,... Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm. Đồng thời, tham ô, lãng phí còn do trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa và trình độ tổ chức quản lý nhà nước yếu kém lại không chịu rèn luyện tu dưỡng nên một số cán bộ, đảng viên đã rơi vào tình trạng tham ô, lãng phí, suy thoái phẩm chất đạo đức,... gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, tích cực phát huy dân chủ trong đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng - nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng.

Để phòng trừ, đấu tranh với tệ tham nhũng, phương thuốc hữu hiệu nhất, theo Người, là phát huy dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

Trên quan điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “dân chủ là chìa khóa vạn năng”, để chữa nhiều căn bệnh, trong đó có bệnh tham nhũng. Tuy nhiên, vì tham nhũng là một căn bệnh nguy hiểm, nên phải coi việc chống tham nhũng cũng quan trọng như một mặt trận - mặt trận chính trị tư tưởng. Muốn thắng, ắt phải có chuẩn bị, có kế hoạch, tổ chức, phải có lãnh đạo và trung kiên. Theo Người, phải thực sự coi đây là một cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư với “kẻ địch” là tệ tham ô, tham nhũng. Do đó, phải huy động lực lượng, trí tuệ của nhân dân vào cuộc cách mạng này, tạo ra phong trào quần chúng sâu rộng để nhân lên cái tốt, cái tiến bộ và chống lại cái xấu như “chống giặc nội xâm”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ và nhân dân tham gia trận chiến chống tham ô, tham nhũng, tạo nên một phong trào sâu rộng cùng “chống giặc nội xâm”. Người viết: “Chúng ta từ trên đến dưới phải đồng tâm hiệp lực để thắng lợi trong phong trào này. Mà thắng lợi trong phong trào này sẽ giúp chúng ta đoàn kết hơn nữa, nâng cao năng suất hơn nữa. Nó giúp cán bộ ta cải tạo tư tưởng, nâng cao giác ngộ, thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật thà phụng sự bộ đội và nhân dân. Nó giúp chính quyền ta thành một chính quyền trong sạch, xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh của chiến sĩ và đồng bào...”(6).

Rõ ràng, trong vấn đề chống tham ô, tham nhũng, ngay từ đầu chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy đó là một kẻ địch tinh vi, nguy hiểm, muốn đấu tranh giành thắng lợi, nhất thiết phải động viên và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người khẳng định: “Tham ô lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân”; vì thế: “Muốn chống tham ô lãng phí, chống quan liêu thì phải dân chủ...”(7).

Người coi việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng là chìa khóa đi đến thắng lợi, bởi trong cuộc đấu tranh chống những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những kẻ luôn luôn giấu mặt, tinh vi và có nhiều thủ đoạn, tất yếu phải nhờ vào tai, mắt, trí tuệ của nhân dân. Cho nên, vấn đề có tính chất quyết định đến thành công hay thất bại của mặt trận chống tham nhũng, là phải động viên, tập hợp được mọi lực lượng, mọi tầng lớp xã hội tham gia vào trận tuyến vô hình nhưng đầy quyết liệt và khó khăn này.

Đánh giá về vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong cuộc đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, chống lãng phí quan liêu nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(8). Song, Người cũng phân tích rất rõ ràng, quần chúng nhân dân chỉ phát huy sức mạnh khi họ được lãnh đạo, được tổ chức, được đoàn kết thành một khối thống nhất và khi được phát huy dân chủ. Vì theo Người: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”(9); “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”(10). Người khẳng định: “Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”(11). Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì phải làm gì? Về vấn đề này, Người cũng đã chỉ dẫn “Nghĩa là phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng; và: “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”(12). Mặt khác, trong bất kỳ công tác gì, đặc biệt là chống tham nhũng, phải: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(13).

3. Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng, suy nghĩ đến cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người, từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và đã có nhiều cơ chế, chính sách, biện pháp mạnh mẽ. 

Trong điều kiện của một đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, việc thường xuyên xây dựng đảng thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân là đặc biệt quan trọng. Muốn xây dựng đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, trước hết phải chống được quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng và bộ máy nhà nước. Phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí là một việc khó, phức tạp vì nó là cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng, đòi hỏi phải có sự quyết tâm của toàn Đảng và xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI đã tiếp tục thể hiện quyết tâm chính trị cao nhằm đấu tranh với tệ nạn nguy hiểm này. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Hội nghị trung ương 5 khóa XI đã đánh giá đúng mức thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí hiện nay. Hội nghị đánh giá kết quả 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đặc biệt là Kết luận số 21-KL/TW, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ký ban hành được dư luận cả nước quan tâm theo dõi. Đây là nội dung thể hiện sự kiên quyết đấu tranh loại bỏ hiện tượng tham nhũng, lãng phí trong Đảng, cả ở hiện tại và tương lai. Hội nghị trung ương 5 khẳng định: sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, với quyết tâm, nỗ lực của các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và cả hệ thống chính trị, công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả bước đầu, nhất là trong phòng ngừa, công khai, minh bạch hóa, cải cách thủ tục hành chính, quản lý tài sản công. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế. Tuy nhiên, công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, “Với những biểu hiện tinh vi, phức tạp”(14), gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. 

4. Phòng và chống tham nhũng, lãng phí là công việc khó khăn, phức tạp, không thể làm trong thời gian ngắn mà đó là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, để làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện theo tinh thần Nghị quyết trung ương 5 khóa XI trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện nay, theo chúng tôi cần tập trung vào giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ để phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật,… Trong thực tiễn, cũng cần có những quy định cụ thể để điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Từng bước thực hiện chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức có nguồn thu nhập chủ yếu bằng lương, sống bằng lương và có mức sống khá trong xã hội. 

Hai là, phải dựa vào quần chúng, phát động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Chống tham nhũng, quan liêu là cách mạng. Cách mạng là tiêu diệt những cái xấu, xây dựng cái mới. Nhưng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Cho nên, cũng như mọi công việc khác, việc chống quan liêu, tham nhũng phải dựa vào quần chúng, phát động, động viên, tổ chức quần chúng tham gia mới chắc chắn thành công. “Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”. Tai mắt nhân dân rất tinh tường, mọi hành vi của những kẻ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đều không sao thoát khỏi “lưới trời nhân dân”. Tuy nhiên, công tác tổ chức quần chúng lại phải dựa chủ yếu vào cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nếu cán bộ lãnh đạo, quản lý biết tập hợp, vận dụng và chỉ đạo tốt quần chúng trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, nhất định kết quả thu được sẽ rất khả quan.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước thật sự có chất lượng cao. Lựa chọn, bố trí cán bộ, công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn, công việc chung và năng lực thực tế của từng người; tránh tình trạng buông lỏng, dễ dãi đến mức tắc trách trong khi đánh giá, cất nhắc, đề bạt, quản lý cán bộ; đưa công tác quản lý cán bộ, công chức vào nền nếp. Bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, tích cực phê bình và tự phê bình, xây dựng cơ quan, tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh. 

Thực tế là, hiện tượng tham nhũng gắn liền với những con người cụ thể, mà chỉ những người có chức, có quyền, có vị thế trong bộ máy công quyền mới có điều kiện thực hiện hành vi tham nhũng. Vì lẽ đó, tệ tham nhũng sẽ không được giải quyết một cách hiệu quả và triệt để nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc xử lý các cá nhân có hành vi tham nhũng riêng lẻ mà phải xem xét, xử lý cá nhân đó, hành vi đó từ chính tổ chức, đơn vị nơi cá nhân đó là một thành viên, một đại diện, thậm chí là người lãnh đạo. 

Bốn là, cần làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục nâng cao phẩm chất, năng lực cán bộ, công chức. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, cùng với nâng cao trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Yếu tố con người và sức mạnh từ nội lực là quan trọng và có tính quyết định. Việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi đảng viên, cán bộ, công chức và người dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng và tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng. Mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ nghĩa vụ, trách nhiệm đối với công tác phòng chống tham nhũng. Nâng cao hiểu biết, kiến thức pháp luật về phòng chống tham nhũng cho cán bộ, công chức và người dân. Triển khai có hiệu quả Đề án đưa nội dung phòng chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng; gắn công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng chống tham nhũng với việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; biểu dương, khen thưởng và nhân rộng kịp thời những tấm gương liêm chính, dũng cảm tố cáo, đấu tranh chống tham nhũng. 

Năm là, bối cảnh hiện nay, hợp tác, trao đổi cùng phát triển là khuynh hướng tất yếu và chủ đạo. Do vậy, cần tiến hành đẩy mạnh và tăng cường hợp tác quốc tế về phòng chống tham nhũng. Tổ chức nghiên cứu, học tập, trao đổi để tiếp thu kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong phòng chống tham nhũng; khẩn trương ký hiệp định về tương trợ tư pháp với các nước để hợp tác chống tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài; tăng cường đối thoại để bạn bè quốc tế thấy rõ kết quả và quyết tâm phòng chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta; chủ động hội nhập quốc tế trên lĩnh vực phòng chống tham nhũng. 

5. Nhìn lại lịch sử 67 năm xây dựng và phát triển đất nước, việc phòng, chống tham nhũng luôn luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm nhằm giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, công chức, xây dựng chính quyền liêm khiết. Giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang làm thay đổi bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng chống tham nhũng vẫn giữ nguyên giá trị thời sự. Chúng ta cùng nhau tin tưởng và hy vọng rằng, với những giải pháp đã và đang được đưa ra, cùng với những kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, những mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn tới nhất định sẽ được thực hiện thành công./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2. Luật Phòng, chống tham nhũng 2007, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

7. Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/305/305/305/193240/Default.aspx. 

-------------------------------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 178 - 179 

(2) Báo L’ Populaire, ngày 4-9-1919; Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, tr. 12 – 13

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, tr. 488

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 5, tr. 641

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, tr. 489

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1906, tập 2, tr. 417

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr. 515

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr. 276

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr. 592

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 297

(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr. 495

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 297

(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 298

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 172