Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, đào tạo theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
Có thể thấy chất lượng giáo dục và đào tạo của chúng ta hiện chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người; chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập; xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục còn chậm được khắc phục, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.
Việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, đào tạo nước ta đang đặt ra yêu cầu cấp thiết. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”(1).
Nội dung đổi mới giáo dục, đào tạo
Việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế cần được tiến hành với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và nhất quán, bao gồm các nội dung cơ bản được đặt ra là:
- Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội trong phối hợp chặt chẽ với nhà trường để giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả vào xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn; đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, nhất là đối với những người thuộc diện thu hồi đất; nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra; kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: huy động các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời; mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo.
- Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư xây dựng một số trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.
Đổi mới quản lý giáo dục
Để thực hiện được mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, trước hết cần tập trung vào khâu then chốt là đổi mới quản lý giáo dục, bao gồm:
Một là, tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Đây là giải pháp có tính mở đường của khâu then chốt trong đổi mới quản lý giáo dục. Việc phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay đang là một đòi hỏi cấp bách, đồng thời là một trong những đột phá có tính chiến lược của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Vì vậy cần tổ chức lại hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, theo hướng có một cơ quan (Bộ Giáo dục) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay và một cơ quan (Bộ Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và phát triển nguồn nhân lực quốc gia (bao gồm bộ phận quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục thường xuyên mà hiện nay đang thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; bộ phận quản lý nhà nước về dạy nghề thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; bộ phận quản lý nhà nước về thanh niên đang thuộc Bộ Nội vụ hiện nay). Nếu không tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thì không thể đổi mới quản lý giáo dục và “đổi mới căn bản và toàn diện” nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.
Hai là, nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ trong việc thực hiện chiến lược, chính sách phát triển giáo dục. Đổi mới chức năng và phương thức hoạt động của Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch theo hướng giúp Thủ tướng chỉ đạo việc thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục trong thực hiện chiến lược phát triển giáo dục. Hội đồng này có bộ phận giúp việc, huy động lực lượng các nhà khoa học, giáo dục, hoạt động kinh tế - xã hội,... có uy tín thuộc các lĩnh vực khác nhau tham gia quá trình xây dựng, thẩm định các chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển, đánh giá chất lượng, hiệu quả các hoạt động giáo dục một cách thống nhất và đồng bộ.
Ba là, tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục theo hướng: “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên...”(2).
Trong những năm tới, nhu cầu học tập của nhân dân ta ngày càng cao và đa dạng. Xây dựng và phát triển hệ thống học tập suốt đời, xây dựng một xã hội học tập là chủ trương lớn của Đảng, một công việc to lớn có vai trò quan trọng nhằm phát huy nguồn lực con người; yêu cầu này đòi hỏi phải đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục, làm cho giáo dục và đào tạo không chỉ đóng kín trong nhà trường mà còn có thể tiến hành các hoạt động giáo dục - đào tạo thông qua nhiều hình thức tổ chức phong phú, linh hoạt, tổ chức đào tạo liên thông, mềm dẻo, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi được học thường xuyên, liên tục, suốt đời, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. Giáo dục - đào tạo được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau; xóa bỏ ngăn cách giữa các ngành học và cấp học, giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, liên thông liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học. Tổ chức có hiệu quả thực chất việc phân luồng sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục theo hướng khắc phục các bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề và cơ cấu vùng miền, gắn nhà trường với xã hội, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng. Ưu tiên phát triển các trường cao đẳng kỹ thuật, công nghệ và các cơ sở giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Cơ cấu lại hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ chức hệ thống giáo dục tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Cơ cấu lại các trình độ đào tạo theo hướng chuẩn hóa (chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế). Cải tiến tín chỉ, đổi mới tuyển sinh, đa dạng hóa phương thức đào tạo, xây dựng các quy chuẩn về liên thông, chuyển tiếp giữa các cấp bậc học, trình độ đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo và thực hiện các giải pháp khác hỗ trợ việc điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Chủ động nghiên cứu tìm ra các hình thức, cơ chế kết hợp hữu cơ giữa đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn, lấy hiệu quả ứng dụng thực tiễn làm đích để định hướng và gắn kết đào tạo với nghiên cứu, làm cho công tác đào tạo và nghiên cứu thích ứng với cơ chế thị trường, trực tiếp góp phần làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm giáo dục, đào tạo của Việt Nam.
Bốn là, đổi mới cơ bản về tư duy, về cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết một cách hiệu quả những bất cập của toàn hệ thống trong quá trình phát triển. Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân công của Chính phủ, tập trung làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu, như xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế và quy chế quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo; tổ chức kiểm tra và thanh tra giáo dục,... Cần giảm thiểu việc quản lý còn nặng tính chất sự vụ, bị động và tập trung thái quá trong việc thực hiện các “dự án” giáo dục. Trên cơ sở thể chế hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý giáo dục ở các cấp, các ngành mà thực hiện sự phân cấp quản lý mạnh mẽ cho các bộ, ngành, các địa phương. Hoàn thiện quy chế quản lý hoạt động của các loại hình trường. Giao quyền chủ động cao hơn cho các trường đại học, cao đẳng để tạo điều kiện cho các trường chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, đồng thời chịu trách nhiệm lớn hơn đối với xã hội và nhân dân. Đẩy mạnh phân cấp và góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc; ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.
Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ trong giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, thực hiện nền nếp kỷ cương tại các cơ sở giáo dục; kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa nhà trường, gia đình và xã hội, cơ chế gắn kết giáo dục - đào tạo với nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng qua các hình thức tổ chức, liên kết, các chính sách vĩ mô và vi mô.
Tăng cường chất lượng của công tác lập kế hoạch; tiến hành dự báo thường xuyên và tăng cường cung cấp thông tin thường xuyên về nhu cầu nhân lực của xã hội cho các ngành, các cấp, các cơ sở giáo dục để điều tiết quy mô, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật thích hợp để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý giáo dục, khai thác nguồn thông tin quốc tế về giáo dục hỗ trợ việc đánh giá tình hình và ra quyết định phù hợp.
Tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia công tác trên lĩnh vực này. Xây dựng các chuẩn và công khai hóa các chuẩn trong giáo dục và đào tạo.
Năm là, đổi mới căn bản chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực thực tế. Xây dựng và hiện đại hóa các trường đại học sư phạm trọng điểm, chỉ tập trung vào công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, không đào tạo ngoài ngành sư phạm. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch hóa công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên các cấp, các chuyên ngành ở từng địa phương, từng khu vực và cả nước. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ, giáo viên theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm chất của cán bộ. Thực hiện các chế độ, chính sách nhằm thu hút học sinh giỏi vào học ngành sư phạm và các chế độ, chính sách thực sự ưu tiên, ưu đãi cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Chế độ này cần nâng mức hưởng lương và phụ cấp cho giáo viên đứng lớp lên mức ngang cán bộ quân đội và công an.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý, chú trọng quản lý chất lượng giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng và giám sát các hoạt động quản lý giáo dục. Chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng; khắc phục tình trạng thành lập mới các trường ở những nơi, những lĩnh vực không đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ giảng dạy, về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu vào của sinh viên; kiên quyết loại bỏ các trường đào tạo chất lượng kém. Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường đi đôi với việc hoàn thiện cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm sự giám sát của các cơ quan nhà nước, đoàn thể và xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong quản lý giáo dục ở các cấp.
Sáu là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học giáo dục, giải quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới giáo dục. Tiếp tục xây dựng và phát triển lý luận về nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước, đổi mới quản lý và nội dung, phương pháp giáo dục, phổ biến tri thức khoa học giáo dục thường thức trong xã hội. Thường xuyên đánh giá tác động của các chủ trương, chính sách, các giải pháp để bổ sung và hoàn thiện cơ chế đổi mới giáo dục.
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với việc đổi mới quản lý giáo dục. Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ và kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thể chế hóa các các chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng, đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về giáo dục. Các cấp ủy đảng cần quan tâm làm tốt công tác phát triển Đảng, tăng cường xây dựng và củng cố tổ chức đảng, giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng nền nếp, kỷ cương trong nhà trường; coi việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục là một chỉ tiêu phấn đấu xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể cần tăng cường công tác lập pháp, giám sát và phản biện về giáo dục theo chức năng, nhằm thúc đẩy việc quản lý phát triển giáo dục đúng hướng. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa giáo dục, “đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội” nhằm huy động tốt nhất sự đóng góp về trí lực, nhân lực và vật lực của toàn xã hội, của toàn dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục, khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong giáo dục.
Có thể khẳng định rằng, việc đổi mới quản lý giáo dục sẽ góp phần quyết định vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, đào tạo nước ta. Và đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, đào tạo nước ta sẽ góp phần quyết định vào việc “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”(3)./.
----------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 130 - 131
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 95
(3) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr.130
Báo chí đồng hành cùng tổ chức Công đoàn và người lao động cả nước  (23/02/2013)
Hội Nông dân Việt Nam thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới  (23/02/2013)
Góp ý hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992  (22/02/2013)
Góp ý hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992  (22/02/2013)
5 đề án về học tập được nhận tài trợ từ AusAID, WB  (22/02/2013)
"Hoàn thiện chính sách nhà ở, thị trường bất động sản"  (22/02/2013)
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
- An ninh nguồn nước ở Thái Lan và hàm ý cho Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên