Trung Quốc - gian nan khẳng định đẳng cấp
TCCSĐT- Trung tuần tháng 2 vừa qua, Chính phủ Nhật Bản chính thức xác nhận Trung Quốc đã vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới sau Mỹ. Nhưng thực chất, để khẳng định đẳng cấp là nền kinh tế lớn mạnh thứ hai thế giới, con đường đi của Trung Quốc chắc chắn còn dài và còn nhiều chông gai, gian nan ở phía trước.
Nền kinh tế lớn mà chưa mạnh
Với ba quý liên tiếp trong năm qua, tổng sản phẩn quốc nội (GDP) đạt mức tăng cao hơn, nền kinh tế Trung Quốc đã chính thức bỏ qua Nhật Bản, vượt lên hàng thứ hai thế giới, chỉ sau cường quốc kinh tế số một Mỹ. Tổng sản phẩm quốc nội của Nhật Bản trong năm 2010 chỉ là 5.474,2 tỉ USD, trong khi GDP của Trung Quốc là 5.878,6 tỉ USD. Tuy nhiên, đứng trên đỉnh cao vinh quang, người Trung Quốc cũng nhận thức rõ nền kinh tế của mình tuy lớn và đạt mức tăng trưởng cao, song chưa thực sự mạnh và còn tồn tại không ít mặt trái. Quả thật, phía bên kia đỉnh cao bao giờ cũng là sườn dốc. Nếu không cẩn thận, Trung Quốc rất dễ trượt khỏi đỉnh cao ấy, nhất là khi nước này đang ở vào khúc quanh quan trọng như hiện nay.
Nếu dùng đồng USD để đo lường tổng sản lượng một quốc gia, điều đó cũng đồng nghĩa với việc người ta đã dùng một thước đo thiếu chính xác, nhất là trong trường hợp đồng USD tại Nhật Bản mua được ít hàng hóa hơn so với cùng một số tiền ấy tại Trung Quốc. Để điều chỉnh cho thực tiễn hơn, người ta có phương pháp PPP hay “Purchasing Power Parity”, nghĩa là so sánh hai nền kinh tế ở sức mua tương đương của đồng bạc. Và nếu so sánh theo phương pháp này, thì kinh tế Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản từ năm 2001. Bởi vậy, việc GDP của Trung Quốc có nhỉnh hơn Nhật Bản trong năm qua, quả thật không có gì đáng ngạc nhiên và đây cũng không còn là thông tin quá mới mẻ nữa.
Hiểu rõ điều đó, Trung Quốc cũng không làm rùm beng sự kiện này. Tờ "Nhân dân Nhật báo" đã đăng bài “Trung Quốc vượt Nhật Bản để thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - nhưng không phải là nền kinh tế mạnh thứ hai”. Hơn ai hết, Trung Quốc nhận thức rõ sự khác biệt giữa lớn và mạnh. Cái lớn của Trung Quốc là dân số, hơn 1,3 tỉ người so với 127 triệu dân Nhật Bản, song đó hoàn toàn không phải là điểm mạnh.
Nhìn lại hơn 3 thập kỷ cải cách (từ năm 1979), sức bật của Trung Quốc chưa mạnh như Nhật Bản trong cùng thời kỳ, mà chỉ thực sự vọt nhanh từ một thập kỷ qua. Nước này lần lượt vượt I-ta-li-a (năm 2000), rồi Pháp, Anh, Đức và bây giờ là vượt Nhật Bản. Tuy nhiên, những thành công của Trung Quốc so với Nhật Bản chưa chắc đã hơn gì. Sự lớn mạnh của Nhật Bản đã được ghi nhận từ những ngày quốc gia này tổ chức Đại hội Thể thao thế giới Tô-ky-ô năm 1964; vượt qua Tây Đức để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới từ năm 1967. Hiện nay, cho dù bị “soán ngôi”, sản lượng bình quân tính trên đầu người của Nhật Bản vẫn gấp 10 lần Trung Quốc. Có thể thấy rõ bức tranh kinh tế Trung Quốc vẫn còn nhiều mảng tối, mà trước hết đó là hơn 100 triệu dân sống trong cảnh nghèo khó - thu nhập chưa tới 2 USD/ngày.
Tăng trưởng kinh tế song hành với gia tăng lạm phát và bộc lộ mặt trái của chính sách
Khi người dân Trung Quốc biết là GDP nước mình vừa vượt qua Nhật Bản, thì cũng là lúc họ nhận thấy lạm phát đã vượt định mức của nhà nước. Nhưng lạm phát chỉ là một phần. Trung Quốc lại vừa tăng lãi suất lần thứ tư kể từ trung tuần tháng 10-2010 và việc này sẽ còn tiếp tục. Vấn đề này tác động không nhỏ tới đời sống của người dân và ảnh hưởng tới các vấn đề thuộc về cơ cấu, trước hết là sự chuyển dịch dân số với hậu quả là các doanh nghiệp Trung Quốc phải đau đầu vì tình trạng thiếu người lao động. Nguyên nhân của tình trạng này là do chính sách liên quan tới nỗ lực đầu tư vào nội địa của Chính phủ Trung Quốc. Cả doanh nghiệp lẫn người lao động đều đi tìm môi trường thuận lợi cho mình. Doanh nghiệp thì tìm nơi sản xuất rẻ hơn và với mức lương phải trả thấp hơn, còn người lao động lại tìm nơi trả lương cao. Hai mục đích trái ngược nhau, thì làm sao người lao động và các doanh nghiệp có thể gặp nhau ở một điểm. Hệ quả của tình trạng này là nhiều địa phương muốn giữ lao động cho mình nên đã nới lỏng chế độ hộ khẩu và không coi người lao động là thành phần di dân từ nông thôn ra. Nỗ lực này tuy có đem lại kết quả khi các thành phố nội địa như Tây An, Vũ Hán và nhất là Thành Đô đã tiếp nhận được đầu tư nước ngoài, song những vụ đình công đòi tăng lương ở các tỉnh miền Đông trong suốt năm qua lại gia tăng, càng thúc đẩy chiều hướng “Tây tiến”, dẫn đến tình trạng nơi thì thiếu thợ, nơi lại thiếu việc làm.
Tuy nhiên, các nhà phân tích còn chỉ rõ một nguyên nhân sâu xa hơn thuộc về cơ cấu, chính sách dân số khiến cho đất nước hơn 1,3 tỉ dân này lại có thể lâm vào tình trạng thiếu hụt lao động. Người ta đã phải dùng đến hình ảnh “vựa người của Trung Quốc đang vơi dần”. Từ năm 1978, Trung Quốc tiến hành kế hoạch hóa gia đình với quốc sách “mỗi hộ một con”. Kết quả là ngày nay, thành phần dân số ở độ tuổi lao động sung mãn nhất đã giảm hẳn và còn tiếp tục giảm nữa trong những thập niên tới. Hệ quả tất yếu là lương từ nay chỉ tăng chứ không giảm và ưu thế của chiến lược khai thác lao động giá rẻ để chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu bằng mọi giá đang mất dần giá trị.
Bên cạnh đó, hơn nửa số yêu cầu về lao động lại là lực lượng cơ bắp với trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống, kế đó mới là những công việc cần người có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học và cao đẳng kỹ thuật, trong khi đói việc nhất trong xã hội Trung Quốc lại chính là những người có bằng cấp từ đại học trở lên. Trong 10 năm qua, số người tốt nghiệp đại học tăng gấp năm lần, trong khi cơ chế sản xuất của nền kinh tế Trung Quốc vẫn theo chiến lược sử dụng nhân công thay vì tư bản và máy móc. Rõ ràng, Trung Quốc đang mất dần ưu thế trong chiến lược kinh tế dựa vào nhân công rẻ, xuất khẩu ồ ạt và phải đối mặt với sự đình đốn kéo dài khi số người cao tuổi ngày càng đông và lớp trẻ có hiểu biết lại chưa được sử dụng đúng mức.
Đánh giá của giới chuyên gia về sự soán ngôi của Trung Quốc
Một học giả thuộc Viện Đông phương học của Nga, bà I-ri-na Lê-bê-đê-va (Irina Lebedeva), khẳng định: Tuy Trung Quốc đã chính thức vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, song thành quả này của họ có được là nhờ tốc độ tăng trưởng cao trong những năm gần đây thông qua các con số GDP tuyệt vời. Nhưng xét từ quan điểm phát triển tiềm năng khoa học và công nghệ, thiết bị sản xuất trong công nghiệp và tất cả các lĩnh vực kinh tế khác, Trung Quốc còn xa mới đạt tới trình độ của Nhật Bản, khi mà quốc gia này vẫn duy trì được chất lượng kinh tế cao. Có thể nói, “Nhật Bản đi trước Trung Quốc vài thập kỷ”, chứ chưa nói gì đến việc kinh tế Trung Quốc có thể sớm tiến sát tới giá trị của nền kinh tế số một thế giới (Mỹ) với trên 14.000 tỉ USD và sẽ còn giữ ngôi vị số một này trong nhiều năm tới.
Cần lưu ý rằng, tăng trưởng GDP của Nhật Bản đã có thời giống sự tăng trưởng hiện nay ở Trung Quốc. Nền kinh tế Nhật Bản vào những năm 80 của thế kỷ trước khá khép kín, bởi họ chỉ chú trọng xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ - thị trường số một thế giới, trong khi rất hạn chế nhập khẩu. Sau khi Tô-ky-ô tiến tới mở cửa thị trường của mình, định lại giá đồng yên, lập tức nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu để mất lợi thế cạnh tranh. Hiện nay, nhìn lại chặng đường phát triển kinh tế của Trung Quốc, từ khi nước này chính thức cải cách nền kinh tế vào năm 1979, có thể thấy rõ nước này đã “rập khuôn” cách làm của người Nhật Bản - duy trì tỷ giá đồng nhân dân tệ thấp so với đồng USD nhằm tạo lợi thế xuất khẩu và không chú trọng khuyến khích sức mua trong nước (người Trung Quốc chỉ tiêu dùng khoảng 30-40% thu nhập). Nhờ thế, Trung Quốc đã lần lượt vượt qua các đối thủ kinh tế lớn là Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản và ngày càng tiến sát tới ngôi vị đỉnh cao kinh tế thế giới mà nước Mỹ đang chiếm giữ. Lúc này, để đáp lại mong muốn thâm nhập thị trường Trung Quốc của nhiều đối tác, liệu Trung Quốc có đi theo vết xe của người Nhật Bản để mở cửa thị trường, và nếu làm như vậy, điều gì sẽ xảy ra với nền kinh tế Trung Quốc? Điều này cũng không phải là khó đoán, khi mà hiện nay 70% nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc vào xuất khẩu, và điều đó cho phép Trung Quốc giữ ưu thế dẫn đầu về dự trữ ngoại hối, nhưng cũng đồng nghĩa với việc hứng chịu những yếu tố rủi ro rất lớn, nhất là khi kinh tế Trung Quốc vẫn chưa phát triển cân đối.
Ngoài ra, xét về tỷ lệ GDP bình quân đầu người (3.600 USD) và khoảng cách giữa thu nhập của người giàu và nghèo, giữa người dân thành phố và nông thôn, Trung Quốc vẫn chỉ đứng hàng thứ 124 thế giới và cùng "hạng" với các quốc gia như An-giê-ri, En Xan-va-đo, An-ba-ni… Có thể bỏ qua Nhật Bản về chỉ số GDP, song rõ ràng, Trung Quốc sẽ còn phải nỗ lực rất nhiều để có thể rút ngắn cách biệt về mức thu nhập bình quân tính theo đầu người của Nhật Bản (37.000 USD) hay của Mỹ (42.240 USD).
Một nhà phân tích khác, ông Ri-sác Giê-ram (Richard Jerram), đặc trách vấn đề kinh tế châu Á tại Ngân hàng Macquarie của Ô-xtrây-li-a, cho rằng không phải mọi thứ đều êm ả đối với Trung Quốc. Theo ông, hiện có nhiều ý kiến thực sự quan ngại khi xét tới tính hiệu quả của tiến trình phát triển tại Trung Quốc. Người ta có cảm tưởng là Trung Quốc đang đầu tư "một cách quá mức" và kết quả là nhiều công trình đầu tư không có hiệu quả. Ngoài ra, cơ cấu tài chính ở Trung Quốc cũng giữ một vai trò trong tiến trình đầu tư không hiệu quả này. Trong khi đó, một chuyên gia kinh tế tại Ngân hàng Merrill Lynch của Mỹ, cho biết khi mức phát triển của Trung Quốc vượt qua Nhật Bản, đặc biệt là trong việc lợi tức tăng cao, thì đây lại là điều có lợi cho Nhật Bản vì người dân Trung Quốc bắt đầu tiêu thụ các loại hàng hóa bền đẹp (của Nhật Bản), chẳng hạn như xe hơi. Điều này thật cũng chẳng khác hình ảnh “gậy ông đập lưng ông” là mấy. Ai biết được khi đã phát triển, Trung Quốc lại cũng sẽ trở thành thị trường "béo bở" của Nhật Bản.
Điều cuối cùng, có thể thấy rõ, Nhật Bản đã không hề nao núng dù bị Trung Quốc soán ngôi. Hơn ai hết, người Nhật Bản cũng như người Trung Quốc đều hiểu rõ thực trạng nền kinh tế của mình. Và Trung Quốc còn phải tỉnh táo để đi tiếp những chặng đường gian nan nhằm khẳng định “đẳng cấp” nền kinh tế thứ hai vừa giành được từ tay Nhật Bản./.
Tổng Bí thư, Chủ tịch QH, Chủ tịch Hội đồng bầu cử Trung ương Nguyễn Phú Trọng: Giới thiệu người có năng lực và trách nhiệm trước nhân dân  (03/03/2011)
EVN-NPC triển khai kế hoạch cung cấp điện mùa khô  (03/03/2011)
Mỹ cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc  (03/03/2011)
Tổng thống Li-bi chấp thuận kế hoạch hòa bình của Vê-nê-xu-ê-la  (03/03/2011)
Xu hướng tăng cường hiện đại hóa quân đội các nước sau chiến tranh lạnh  (02/03/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm