Kết hợp tăng trưởng kinh tế với đào tạo nghề và giải quyết việc làm ở Đồng Nai
TCCSĐT - Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, luôn duy trì được tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định trong nhiều năm: giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 12,86%/năm, giai đoạn 2006 – 2010 tăng bình quân 13,2%/ năm. Đi đôi với tốc độ tăng trưởng, cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2000, cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp là (52,2% - 25,6% - 22,2%), đến năm 2010, đã chuyển dịch cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp là (57,2% - 34,1% - 8,7%).
Từ một đề án có tính khả thi cao…
Để đáp ứng nguồn nhân lực cho yêu cầu phát triển, ngày 22/02/2006, tỉnh Đồng Nai đã xây dựng Đề án “phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”, trong đó có Chương trình “ Đào tạo lao động kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”, với mục tiêu ( giai đoạn 2006 – 2010) đào tạo nghề cho 244 ngàn lao động và hàng năm giải quyết việc làm cho 70 – 75 ngàn lao động. Thực hiện mục tiêu trên, 4 năm qua, tỉnh đã tập trung nhiều giải pháp: Quy hoạch, đầu tư phát triển mới các trường dạy nghề công lập; đẩy mạnh xã hội hoá trong công tác dạy nghề; có chính sách đãi ngộ để thu hút giáo viên dạy nghề, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên; mở rộng liên kết với các tổ chức nước ngoài để tranh thủ nguồn vốn, kinh nghiệm, cập nhật kiến thức và kỹ năng đào tạo nghề; liên kết với các doanh nghiệp để đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp; xây dựng mô hình đào tạo liên thông giữa các trường; đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề phù hợp điều kiện thực tế và nhu cầu ( đào tạo theo nhu cầu sử dụng lao động, đào tạo theo tín chỉ, vừa học vừa làm, đào tạo từ xa, đào tạo tại chỗ, tái đào tạo…); xây dựng quỹ đào tạo nghề để hỗ trợ các đối tượng bộ đội xuất ngũ, người nghèo, gia đình chính sách, dân tộc thiểu số; tăng cường công tác truyền thông nâng cao nhận thức của người lao động và nhân dân về tầm quan trọng của kỹ năng nghề nghiệp đối với người lao động; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp tại các trường phổ thông, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp vào các trường nghề…
… Đến những giải pháp đúng và hiệu quả thiết thực
Với nhiều giải pháp tổng hợp và sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị; đi đôi với sự đồng tình, tích cực hưởng ứng tham gia của các doanh nghiệp, các trường, các tầng lớp nhân dân, trong 4 năm qua (2006 – 2009), toàn tỉnh đã phát triển thêm 26 cơ sở dạy nghề và 1.472 giáo viên dạy nghề. Đến đầu năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 93 cơ sở dạy nghề (5 trường cao đẳng nghề, 2 trường cao đẳng – trung cấp nghề, 3 trường trung cấp nghề, 14 trung tâm dạy đào tạo nghề công lập; còn lại là các cơ sở dạy nghề tư thục) với 2.263 giáo viên dạy nghề. Trình độ giáo viên dạy nghề cũng được nâng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác dạy nghề; hiện nay, 89% giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học ( năm 2005 chỉ có 79,9%), 11% giáo viên có trình độ sau đại học ( năm 2005 chỉ có 0,8%). Trong 4 năm (2006 – 2009) đã đào tạo nghề cho 242.400 người, trong đó đào tạo dài hạn (cao đẳng, trung cấp nghề) 36.400 người, đào tạo ngắn hạn ( sơ cấp nghề) 206.000 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề hàng năm đều tăng, năm 2006 chiếm 34%, năm 2009 chiếm 39,09%.
Trên cơ sở đào tạo nghề cho người lao động, tổ chức định kỳ ngày hội việc làm và thông qua các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh, trong 4 năm ( 2006 – 2009) , toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 345 ngàn người ( đưa vào làm trong các doanh nghiệp là 198 ngàn lao động, các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh là 246 ngàn người, xuất khẩu lao động trên 1 ngàn người).
Kết quả trên đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ 45,6% năm 2005 xuống còn 30% năm 2009, lao động phi nông nghiệp tăng từ 55,4% năm 2005 lên 70% năm 2009; giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị xuống còn 2,6% và tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 89%.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân: như về trình độ học vấn, về tuổi tác, điều kiện của người lao động…, nên chủ yếu lao động được đào tạo nghề ở trình độ sơ cấp (chiếm 75%); số lao động được đào tạo nghề dài hạn có trình độ trung cấp trở lên đạt thấp; bên cạnh đó, chất lượng dạy nghề chưa cao, thiết bị dạy nghề còn bất cập so với quy mô và trình độ đào tạo. Hàng năm tỉnh giải quyết việc làm từ 80 – 85 ngàn lao động, song lao động qua đào tạo nghề đến năm 2009 chỉ chiếm 39,09%, đây là tỷ lệ rất thấp so với yêu cầu một tỉnh phát triển công nghiệp như Đồng Nai.
Những công việc còn phải tiếp tục
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IX đã thể hiện rõ quyết tâm thực hiện Quyết định của Chính phủ “ xây dựng Đồng Nai đến năm 2015 thành tỉnh cơ bản công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Tỉnh đã xác định chỉ tiêu nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đến năm 2015 đạt trên 65%; giải quyết việc làm cho 450 ngàn lao động (giai đoạn 2010-2015); chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ mỗi năm 2%, đến năm 2015 tỷ trọng lao động khu vực dịch vụ - công nghiệp chiếm 75%; giảm tỷ lệ lao động không có việc làm ở thành thị xuống dưới 2,6%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lap động ở nông thôn lên 90%. Để thực hiện đạt mục tiêu trên, cần tập trung một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, quy hoạch hệ thống nghề cần thiết đào tạo trên địa bàn; xác định rõ những ngành nghề cần tập trung đào tạo bằng ngân sách nhà nước và những ngành nghề cần xã hội hoá bằng nhiều hình thức đào tạo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển hệ thống trường và cơ sở đào tạo nghề. Chú trọng những ngành nghề thuộc các lĩnh vực kỹ thuật công nghệ cao, các lĩnh vực ưu tiên; đồng thời phải chú ý đến việc đào tạo nhân lực phục vụ các lĩnh vực ngành nghề với công nghệ đòi hỏi đầu tư thấp, sử dụng nhiều lao động, lao động ở nông thôn nhằm tạo thêm nhiều việc làm trên phạm vi toàn tỉnh.
Hai là, Đối với các trường chuyên nghiệp hiện có, cần phải mở rộng quy mô và phát triển thêm các ngành nghề về điện tử, viễn thông, hoá thực phẩm, vi sinh, tài chính…Đầu tư nâng cấp các trường trung cấp kỹ thuật thành các trường cao đẳng kỹ thuật nhằm đào tạo thêm cán bộ kỹ thuật cho các ngành nghề: cơ khí chính xác, điện tử công nghiệp, hoá chất, chế biến nông sản, kỹ thuật viên bảo hành công nghiệp, bảo trì điện tử… Áp dụng công nghệ mới nhằm nâng cao hiệu quả và quy mô công tác đào tạo; hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống đào tạo chuyên nghiệp của tỉnh.
Ba là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật của tỉnh. Tranh thủ nguồn vốn và kinh nghiệm đào tạo nghề của các nước; cập nhật, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề cho giáo viên, cán bộ quản lý và lao động chất lượng cao, từng bước tiếp cận chuẩn quốc tế. Thông qua hợp tác quốc tế, lựa chọn và gửi đi nước ngoài đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cho các ngành nghề sẽ phát triển trong tương lai.
Bốn là, tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá cơ sở vật chất cũng như các loại máy móc, trang thiết bị đào tạo để theo kịp và đi trước một bước trình độ kỹ thuật, công nghệ trong thực tế sản xuất. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề; bố trí đủ, đúng chuyên ngành ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, các trung tâm dạy nghề. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo những tiêu chuẩn kỹ năng của các nghề kỹ thuật hiện đại và tương lai, rèn luyện kỹ và nâng cao khả năng sáng tạo, năng lực thích nghi, sử dụng các phương tiện giáo dục hiện đại, nhất là công nghệ thông tin.
Năm là, chú trọng việc xây dựng và phát triển các hình thức đào tạo và các cơ sở đào tạo nhân lực kỹ thuật tại các khu công nghiệp hoặc ở chính các doanh nghiệp. Tổ chức điều tra, khảo sát để tập trung đào tạo những ngành nghề theo nhu cầu của thị trường lao động; gắn kết có hiệu quả giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp sử dụng lao động. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin thị trường lao động trên các phương tiện thông tin đại chúng, các website; tổ chức định kỳ ngày hội việc làm để làm cầu nối giữa người lao động và doanh nghiệp sử dụng lao động.
Sáu là, xây dựng mô hình đào tạo liên kết, liên thông giữa các trường phổ thông – trung học chuyên nghiệp – cao đẳng - đại học; tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, đặc biệt là học sinh ở nông thôn; phân luồng học sinh tốt nghiệp cấp 2, cấp 3 vào các trường nghề; đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức của người lao động và nhân dân về tầm quan trọng của kỹ năng nghề nghiệp đối với người lao động; lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội với chương trình giải quyết việc làm, nhất là khu vực nông thôn./.
Chỉ thị của Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016  (17/01/2011)
Thảo luận về tiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI  (16/01/2011)
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN đầu tiên trong năm 2011: Tăng cường hành động vì sự phát triển khối  (16/01/2011)
Vang mãi lời ngợi ca và niềm tin theo Đảng  (16/01/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm