Thực hiện chủ trương của Đảng ta về mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền

Mẫn Huyền Sâm ThS, Ban Đối ngoại Trung ương
20:07, ngày 12-06-2012
TCCS - Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”. Điều đó cho thấy, bên cạnh quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân và đảng cánh tả, thì quan hệ với các đảng cầm quyền là một trong những định hướng quan trọng trong chính sách đối ngoại của Đảng ta. Do đó, việc tìm hiểu sự hình thành và phát triển của chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng.
Cơ sở hình thành chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng

Một là, nhận thức về vai trò của đối ngoại Đảng trong ngoại giao Việt Nam. Xuất phát từ vị thế là một đảng cầm quyền, đối ngoại Đảng được nhìn nhận trên hai khía cạnh: Thứ nhất, đề ra định hướng, đường lối lớn về đối ngoại, chỉ đạo công tác đối ngoại của đất nước. Thứ hai, đóng vai trò là một trong ba trụ cột của ngoại giao Việt Nam, gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đối ngoại Đảng đã góp phần thắt chặt quan hệ đoàn kết chiến đấu của nhân dân 3 nước Đông Dương chống kẻ thù chung, tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ, sự giúp đỡ thiết thực và có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, bạn bè khắp năm châu; góp phần thực hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; làm cho nhân dân các nước, trong đó có nhân dân tiến bộ ở các nước đang tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam hiểu rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, tạo nên mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, góp phần đưa đến đại thắng Mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước.

Trong bối cảnh Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu sụp đổ, đối ngoại Đảng, trên cơ sở không ngừng mở rộng, tăng cường quan hệ đa dạng cả về song phương và đa phương với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới trên tinh thần “phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các chính đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích, độc lập, tự chủ của đất nước”(1), đã có nhiều đóng góp to lớn vào những thành tựu của ngoại giao Việt Nam, đưa đất nước ra khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn; giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo với các nước liên quan; giữ vững môi trường hòa bình; tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Hiện nay, tầm quan trọng của đối ngoại Đảng càng không ngừng được nâng lên bởi các chính đảng đang ngày càng trở thành một trong những chủ thể quan trọng trong quan hệ quốc tế, các đảng cầm quyền ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng không chỉ trong việc hoạch định, mà còn trong triển khai các chính sách đối nội và đối ngoại của các quốc gia.

Hai là, những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực. Trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, vừa hợp tác, vừa đấu tranh..., buộc các chủ thể trong quan hệ quốc tế cũng như các chủ thể trong mỗi quốc gia phải điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa các nước lớn diễn biến phức tạp, đa dạng và đan cài nhiều tầng nấc, nhưng theo xu hướng tránh đối đầu, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và vừa tranh thủ, vừa kiềm chế lẫn nhau. Trên cơ sở tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn hiện nay, mặc dù Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất trên thế giới với sức mạnh vượt trội trên nhiều lĩnh vực, nhưng sức mạnh và ảnh hưởng trong các vấn đề khu vực và quốc tế của các nước khác, như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), Ấn Độ đang không ngừng gia tăng.

Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, hòa bình, hợp tác cùng phát triển đang là nét chủ đạo. Hợp tác ASEAN bước sang thời kỳ phát triển mới với liên kết nội khối được củng cố và thể chế hóa cao khi đưa ra mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. ASEAN đã khẳng định vai trò nòng cốt trong các cơ chế hợp tác khu vực và nâng cao vị thế của mình với các đối tác bên ngoài. Về đối ngoại, hầu hết các nước trong khu vực thực hiện chính sách rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ, ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng, khu vực, đồng thời xây dựng mối quan hệ cân bằng với các nước lớn nhằm tranh thủ vốn, công nghệ và mở rộng thị trường, phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, môi trường an ninh khu vực vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc do tình hình nội trị tại một số nước còn phức tạp; hiện tượng ly khai, xung đột sắc tộc, tôn giáo và tranh chấp biên giới, lãnh thổ vẫn diễn ra, có thời điểm khá căng thẳng, nhất là tại những khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các vấn đề toàn cầu, như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, khủng bố.

Ba là, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), Đảng ta quyết định tiến hành công cuộc đổi mới trong bối cảnh đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, bị bao vây, cấm vận, đồng thời với những thách thức và tác động sâu sắc từ những đảo lộn chính trị trên thế giới. Triển khai đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ với tinh thần “...hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” (Đại hội VII); “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội VIII), “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội IX); “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực” (Đại hội X); và, “Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội XI).

Quá trình hình thành và phát triển của chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền là bước phát triển quan trọng về tư duy lý luận trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng ta, phù hợp với xu thế của thời đại, là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp của Việt Nam, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới và khu vực.
Việc mở rộng các quan hệ đối ngoại của Đảng ta được dựa trên các nguyên tắc cơ bản, như tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền. Những nguyên tắc này phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc, là thành quả đấu tranh chung của các dân tộc trên thế giới, trong đó có dân tộc Việt Nam, đồng thời phù hợp với lợi ích của dân tộc ta, đất nước ta.

Có thể nói, tinh thần đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế chính là một nền tảng quan trọng để bên cạnh việc chú trọng đến mối quan hệ truyền thống với các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả như trước đây, Đảng ta mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền hiện nay trên thế giới.

Quá trình phát triển và nội dung chủ trương đối ngoại của Đảng

Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ yếu tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, tổ chức cách mạng, độc lập dân tộc. Theo đó, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) nhấn mạnh: “Là một đội ngũ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Đảng ta tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, tăng cường sự hợp tác giữa các đảng anh em trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”(2).

Từ Đại hội VII (tháng 6-1991) đến nay, cùng với việc nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, Đảng ta đã ngày càng nhận rõ hơn về hai cơ sở khách quan để mở rộng quan hệ đối ngoại Đảng: Thứ nhất, có cùng mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, có cùng lợi ích hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các quốc gia, dân tộc.

Trong hoạch định chính sách đối ngoại, một mặt, Đảng ta tiếp tục tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng, tổ chức cách mạng, độc lập dân tộc; mặt khác, từng bước mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, các đảng cầm quyền, tham chính: “...tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại. Đoàn kết với các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới”(3). Đây là bước phát triển quan trọng về tư duy lý luận của Đảng ta trong đối ngoại Đảng, phản ánh nhu cầu và tình hình thực tiễn trong nước, đồng thời phù hợp với xu thế quan hệ quốc tế.

Tinh thần trên đây của Đại hội VII cũng chính là cơ sở để tại Đại hội VIII (tháng 6-1996) được phát triển một bước, chính thức đánh dấu sự điều chỉnh trong chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền của Đảng ta. Lần đầu tiên, Đảng ta nêu rõ: “Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ; mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác”(4).

Chủ trương trên tiếp tục được Đại hội IX (tháng 4-2001) và Đại hội X (tháng 4-2006) khẳng định: “Tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền”(5).

Tại Đại hội XI (tháng 1-2011), Đảng ta phát triển chủ trương quan hệ với các đảng cầm quyền lên mức cao hơn, coi đây là một trong những định hướng quan trọng trong chính sách đối ngoại Đảng, bên cạnh quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân và đảng cánh tả, chúng ta “Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”(6).

 Với tư cách là một đảng cộng sản và là một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam, khi triển khai thực hiện chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ với các đảng cầm quyền, Đảng ta coi trọng việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm quản lý đất nước, quản lý kinh tế - xã hội; chủ động đối thoại về các vấn đề đặt ra trong quan hệ của nước ta với các nước này; tăng cường quan hệ về mặt nhà nước, thúc đẩy hình thành khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài và sự hợp tác nhiều mặt, bình đẳng, cùng có lợi giữa Việt Nam với các nước này.

Chủ trương trên dựa trên các nguyên tắc: độc lập tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; cùng nhau thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội và không quan hệ với các đảng cực đoan(7).

Cho đến nay, Đảng ta có quan hệ với 41 đảng cầm quyền(8) trên thế giới. Quan hệ giữa Đảng ta với các đảng cầm quyền đã tạo cơ sở chính trị quan trọng để thúc đẩy quan hệ về mặt nhà nước. Một số chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng đã xác định khuôn khổ cho quan hệ giữa nước ta với các nước. Chuyến thăm của Tổng Bí thư Đỗ Mười đến một số nước Đông Nam Á, như Xin-ga-po (năm 1993), Ma-lai-xi-a (năm 1994), và Thái Lan (năm 1997), một mặt, thiết lập quan hệ chính thức giữa Đảng ta với các đảng cầm quyền ở những nước này; mặt khác, đánh dấu bước chuyển quan trọng, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, tạo cơ sở cho nước ta gia nhập ASEAN vào năm 1995.

Các chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tới Trung Quốc (tháng 8-2006 và tháng 5-2008), Hàn Quốc (tháng 11-2007), Nhật Bản (tháng 4-2009), Ô-xtrây-li-a (tháng 9-2009), Niu Di-lân (tháng 9-2009), Liên bang Nga (tháng 7-2010) không chỉ thắt chặt thêm quan hệ giữa Đảng ta với các đảng cầm quyền, tham chính ở các nước này, mà còn đưa quan hệ song phương giữa Việt Nam và các nước bạn lên tầm cao mới, trong đó thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc; đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á với Nhật Bản; quan hệ đối tác toàn diện với Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân; đưa quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện và đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga sang giai đoạn mới tin cậy, năng động và hiệu quả hơn(9). Bên cạnh đó, qua các chuyến thăm chính thức các nước Vê-nê-xu-ê-la, Bra-xin và Chi-lê (tháng 6-2007), Ăng-gô-la và Mô-dăm-bích (tháng 4-2008) của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, chuyến thăm Ăng-gô-la, Mô-dăm-bích (tháng 7-2009) của đồng chí Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang đã nâng quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện giữa Đảng ta với các đảng cánh tả cầm quyền ở các nước Mỹ La-tinh và châu Phi và giữa Việt Nam và các nước này lên một tầm cao mới.

Thông qua quan hệ với các đảng cầm quyền, Đảng ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm bổ ích về xây dựng, bảo vệ đất nước, lãnh đạo việc quản lý đất nước, giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội..., góp phần bồi đắp tiềm lực tri thức, lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài việc trao đổi ý kiến trong các chuyến thăm lẫn nhau, Đảng ta và các đảng cầm quyền đã chính thức hóa quan hệ bằng việc ký kết các thỏa thuận hợp tác. Trong chuyến thăm Liên bang Nga tháng 11-2009, thay mặt Đảng ta, đồng chí Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang đã ký thỏa thuận hợp tác với Đảng nước Nga Thống nhất đang cầm quyền ở Nga... Bên cạnh đó, Đảng ta thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc và phối hợp với các đảng cầm quyền tại các diễn đàn chính đảng đa phương khu vực, như Hội nghị các chính đảng châu Á (ICAPP), Hội thảo các chính đảng Đông Nam Á...

Một số nội dung cần chú trọng trong phát triển quan hệ với các đảng cầm quyền

Mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển sẽ vẫn là xu thế lớn trên thế giới; cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ nét hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục có những bước phát triển, tuy nhiên, sự cạnh tranh ảnh hưởng và tranh chấp ở các khu vực chiến lược giữa các nước cũng ngày càng tăng, các hoạt động bạo loạn, ly khai… vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt. Hầu hết các nước với chế độ chính trị khác nhau đều có những điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Vị trí, vai trò của các chính đảng, nhất là các đảng cầm quyền ngày càng được khẳng định và tăng cường không chỉ trên chính trường mỗi nước mà cả trong đời sống chính trị quốc tế ở các khu vực và trên thế giới.

Thực hiện nhiệm vụ chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đạt mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, việc tăng cường hơn nữa quan hệ với các đảng cầm quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để phát huy vai trò của mối quan hệ với các đảng cầm quyền, việc chủ động và tích cực tăng cường quan hệ, đưa quan hệ giữa Đảng ta với các đảng cầm quyền đi vào chiều sâu có vai trò quan trọng, nhất là trong một số nội dung, như trao đổi kinh nghiệm quản lý đất nước, quản lý kinh tế - xã hội, đối thoại về các vấn đề đặt ra trong quan hệ của nước ta với các nước, nhằm thúc đẩy quan hệ về mặt nhà nước và hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi, ổn định, bền vững giữa Việt Nam với các nước; đẩy mạnh mối quan hệ trực tiếp giữa lãnh đạo cấp cao của Đảng ta với các nhà lãnh đạo các nước đồng thời là lãnh đạo của các đảng cầm quyền và tích cực phối hợp với các đảng cầm quyền trong các hoạt động đa phương của các chính đảng ở khu vực. Việc mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, một mặt, tạo điều kiện để các đảng và các nước đó hiểu rõ về hệ thống chính trị Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng ta và lợi ích khi tăng cường quan hệ với Đảng ta; mặt khác, chủ động đấu tranh với những cách nhìn nhận chưa đúng đắn, ngăn chặn những tác động phức tạp về chính trị - tư tưởng vào nội bộ nước ta.

Sự chủ động, tích cực và hiệu quả của công tác đối ngoại Đảng, với vị trí là một trong ba mũi giáp công của ngoại giao Việt Nam, sẽ góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước và góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới./.

-------------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 46 - 47

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 102

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 89

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 121

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 113

(6) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 237 - 238

(7), (8), (9) Xem: Hoàng Bình Quân: “Công tác đối ngoại Đảng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X”, Tạp chí Cộng sản, số 14 (tháng 10-2010)