TCCS - Sau gần 20 năm kể từ khi Việt Nam xây dựng và thực thi các luật về giao thông, tình hình giao thông vận tải (GTVT), trật tự, an toàn giao thông (TTATGT) tai nạn giao thông (TNGT) đã có sự cải thiện đáng ghi nhận. Tuy nhiên, đây vẫn những lĩnh vực “nhức nhối”, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, đột phá hướng tới mục tiêu đạt các kết quả bền vững.

Xây dựng lực lượng làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ_Nguồn: baodaklak.vn

Những kết quả bước đầu đáng ghi nhận

Đến năm 2008, sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn, toàn diện về kinh tế - xã hội, theo đánh giá của Quốc hội(1), tình hình GTVT và TTATG ở nước ta đã có bước phát triển đáng kể, thể hiện trên các khía cạnh:

Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng giao thông được quan tâm từ Trung ương đến địa phương; kết cấu hạ tầng giao thông được tăng cường, đáp ứng từng bước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; phương tiện giao thông hiện đại hơn và ý thức pháp luật của người tham gia giao thông dần nâng lên.

Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ cho thực hiện ATGT, như Luật Giao thông đường bộ (năm 2001), Luật Giao thông đường thủy nội địa (năm 2005), Luật Đường sắt (năm 2005), Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (năm 2006); cùng với hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) khác về giao thông vận tải (GTVT).

Theo thống kê, trước khi hệ thống luật pháp về GTVT và TTATGT được xây dựng, tình hình TNGT ở Việt Nam rất nhức nhối, liên tục tăng năm sau cao hơn năm trước. Từ năm 2003, tình hình đã được kéo giảm nhưng chưa thực sự bền vững: Giai đoạn 2003 - 2005 kéo giảm; nhưng các năm 2006, 2007 lại có dấu hiệu tăng. Đến năm 2005, cả nước xảy ra 14.711 vụ TNGT, làm chết 11.534 người, bị thương 12.013 người (so với năm 2004 giảm 16,7% vụ, giảm 5,7% người chết, giảm 22,1% người bị thương). Năm 2006 xảy ra 14.727 vụ, làm chết 12.757 người, bị thương 11.288 người, tăng 25 vụ (0,17%), tăng 1.235 người chết (10,72%), chỉ giảm 734 người bị thương (6,1%). Năm 2007 xảy ra 14.624 vụ, làm chết 13.150 người, bị thương 10.546; so với năm 2006 giảm 77 vụ (0,52 %), tăng 411 người chết (3,23 %), giảm 740 người bị thương (6,56 %). Theo thống kê, TNGT đường bộ chiếm 95,6 % số vụ, 97,3% số người chết và 97,3% số người bị thương.

Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Quốc hội đã ban hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008, được đánh giá là cải cách mạnh mẽ so với Luật năm 2001 (Trong số 89 điều của Luật năm 2008 chỉ có 3 điều của Luật năm 2001 được giữ nguyên (chiếm 3,37%); có 68 điều bổ sung, sửa đổi (chiếm 76,40%) và 18 điều mới (chiếm 20,23%)). Trên thực tế, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 được triển khai trong thực tiễn đã thu được một số kết quả tích cực.

Theo thống kê của Bộ Công an tổng kết 10 năm thi hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008, 10 năm qua đã có trên 4,1 triệu ô-tô và trên 60 triệu mô-tô được đăng ký, quản lý; lực lượng công an đã lập biên bản xử lý trên 53,5 triệu trường hợp vi phạm luật giao thông, nộp kho bạc nhà nước gần 24.000 tỷ đồng, tước giấy phép lái xe trên 3,4 triệu trường hợp, tạm giữ 15,3 triệu phương tiện.

Đáng ghi nhận là, số người chết do TNGT đã được kéo giảm. Trong hơn 10 năm, giai đoạn từ năm 2009 đến tháng 5-2019, toàn quốc đã xảy ra 326.299 vụ TNGT đường bộ, làm chết 97.721 người, bị thương 329.756 người; trung bình mỗi năm tai nạn giao thông cướp đi sinh mạng của gần 10.000 người, xu hướng năm sau giảm hơn năm trước về cả số vụ và số người chết. Theo báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, 6 tháng đầu năm 2019, tai nạn giao thông đã giảm cả 3 tiêu chí: Tổng số xảy ra 8.385 vụ tai nạn giao thông (giảm hơn 7%), làm chết 3.810 người (giảm hơn 7,5%), bị thương 6.358 người (giảm hơn 9,6%); cả nước có 47 tỉnh, thành phố giảm được số người chết do tai nạn giao thông so với cùng kỳ năm 2018.

Những con số trên là thành quả không thể phủ nhận của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong nỗ lực đấu tranh phòng, tránh TNGT, đặc biệt là TNGT gây thương tích, tử vong. Tuy nhiên, đi sâu vào phân tích cũng thấy còn nhiều điều đáng trăn trở:

Một là, kết quả kiềm chế và làm giảm tai nạn giao thông chưa vững chắc, Sau gần 20 năm thực hiện Luật Giao thông đường bộ, dù xu hướng chung là giảm dần số người chết, số vụ tai nạn, vụ tai nạn nghiêm trọng nhưng vẫn có những năm có sự đột biến không theo quy luật này. Số người chết và bị thương do tai nạn giao thông vẫn rất cao, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông.

Hai là, trong số các nạn nhân tử vong vì TNGT ở Việt Nam, đa số là lực lượng đang trong độ tuổi lao động. Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, có đến hơn 75% nạn nhân tử vong vì TNGT là những người trẻ tuổi - học sinh, sinh viên, lao động chính của gia đình; họ là những người mới bắt đầu thực sự bước chân vào cuộc sống và những “cái chết trẻ” bao giờ cũng gây rất nhiều hệ lụy cho xã hội.

Ba là, các hành vi vi phạm về trật tự ATGT vẫn diễn ra phổ biến. Theo báo cáo của Bộ Công an, người tham gia giao thông chưa thực sự tự giác, còn hiện tượng đối phó, thậm chí chống đối người thi hành công vụ. 10 năm qua, toàn quốc đã xảy ra 528 vụ chống lại lực lượng làm công tác bảo đảm TTATGT, làm 7 chiến sỹ cảnh sát hi sinh, 166 người bị thương; lực lượng chức năng đã bắt 507 đối tượng. Việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan chức năng về bảo đảm TTATGT chưa hợp lý, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp; lực lượng thực thi nhiệm vụ vừa thiếu, vừa yếu về năng lực; việc thực thi pháp luật còn chưa nghiêm, có những sai phạm từ chính bộ máy hành pháp.

Bốn là, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế, bất cập; còn sự phát triển manh mún, tình trạng làm đường đến đâu, xây nhà đến đó, xây nhà ven quốc lộ, vi phạm hành lang an toàn giao thông đường bộ vẫn diễn ra  gây ảnh hưởng lớn tới ATGT.

Năm là, mặc dù Đảng, Nhà nước rất coi trọng vấn đề bảo đảm TTATGT với những quyết tâm cao và nỗ lực lớn, nhưng thực tế công tác này chưa phát huy được hết sức mạnh của toàn hệ thống chính trị và nhân dân. Một số cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa quan tâm đúng mức trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong lĩnh vực này.

Tại Lễ tưởng niệm các nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông năm 2019, Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình nhận định: Thiệt hại do tai nạn giao thông đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến những thành quả tăng trưởng kinh tế và gây tổn thương cho hình ảnh một đất nước Việt Nam hòa bình, an toàn, thân thiệt trong mắt bạn bè đối tác; đồng thời, chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận là trong mỗi tai nạn giao thông có phần lỗi và trách nhiệm của từng cá nhân, của cả cộng đồng và Nhà nước.

Đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT với nhiều hình thức và nội dung phù hợp; nâng cao trách nhiệm và tính tự giác chấp hành pháp luật về giao thông_Nguồn: baocantho.com.vn

Cần những giải pháp đồng bộ, đột phá

Chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực GTVT và bảo đảm TTATGT, được thể hiện rất rõ trên nhiều văn bản khác nhau, trong đó quan trọng nhất là các Nghị quyết số 88/2011/NQ-CP, ngày 24-8-2011, của Chính phủ về “Tăng cường thực hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông”;“Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ đến năm 2020 và tầm nhìn 2030”Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 4-9-2012, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI, về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”; Kết luận số 45-KL/TW, ngày 1-2-2019, của Ban Bí thư khóa XII, Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI.

Quan điểm của Đảng, Nhà nước luôn nhất quán khẳng định: Cần xác định công tác bảo đảm TTATGT là một nội dung của công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Tầm vóc của công tác đặc biệt này được thể hiện rõ ở việc ngày 22-6-2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 22/2017/QĐ-TTg, ban hành Quyết định về tổ chức và hoạt động của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, với chức năng tổ chức phối hợp liên ngành, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện các chiến lược, đề án quốc gia về bảo đảm TTATGT và triển khai các giải pháp liên ngành nhằm bảo đảm TTATGT; đứng đầu Ủy ban là đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ.

Ở Việt Nam, phương hướng mục tiêu chung để bảo đảm TTATGT bền vững được xác định là: 1- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm cấp ủy, người đứng đầu chính quyền các cấp, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về bảo đảm TTATGT; thực hiện toàn diện, đồng bộ, liên tục các chủ trương, giải pháp nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ công tác bảo đảm TTATGT; phấn đấu hằng năm kiềm chế, làm giảm từ 5% đến 10% tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và giảm ùn tắc giao thông đường bộ ; 2- Huy động mọi nguồn lực xã hội và hợp tác quốc tế để bảo đảm các điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng giao thông, phương tiện giao thông công cộng; 3- Xây dựng lực lượng làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Để thực hiện các quan điểm, phương hướng đó, các văn bản chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, lực lượng chức năng các cấp đã tập trung xây dựng 5 nhóm giải pháp trọng tâm:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền đối với công tác bảo đảm TTATGT; xác định đây là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TTATGT của các ngành chức năng và chính quyền các cấp; tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện.

Hai là, đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT với nhiều hình thức và nội dung phù hợp; nâng cao trách nhiệm và tính tự giác chấp hành pháp luật về giao thông, thực hiện nếp sống “văn hóa giao thông”; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy pháp luật về TTATGT.

Ba là, tập trung các nguồn lực xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, nâng cao năng lực vận tải, bảo đảm giao thông thông suốt, an toàn. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI , về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Hoàn chỉnh quy hoạch giao thông và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy hoạch đã được phê duyệt. Có cơ chế, chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nước, quốc tế đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.

Bốn là, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về TTATGT. Tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT. Xây dựng chiến lược phát triển phương tiện giao thông phù hợp với phát triển kết cấu hạ tầng giao thông. Tăng cường quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong hoạt động GTVT, bảo đảm hợp lý, khoa học và phù hợp. Đổi mới tổ chức giao thông đường bộ bảo đảm hợp lý, phù hợp với điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông và an toàn thuận lợi cho hoạt động GTVT.

Năm là, triển khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, khắc phục ùn tắc giao thông tại các đô thị lớn, trọng điểm là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm các quy hoạch đô thị và quy hoạch giao thông. Tập trung nguồn lực triển khai đề án phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020 và kết nối với Đề án phát triển vận tải hành khách bằng đường sắt trên cao, tàu điện ngầm, xe buýt nhanh. Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách, trên cơ sở đó vận động người dân sử dụng phương tiện công cộng, hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân.

Có thể khẳng định, 5 nhóm giải pháp trên là khá đầy đủ, toàn diện và nếu được thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ, chắc chắn tình hình TTATGT ở nước ta sẽ ngày càng được cải thiện, giảm thiểu tối đa số vụ tai nạn và số người chết, bị thương do TNGT. Tuy nhiên, căn cứ điều kiện hiện nay tại Việt Nam, theo chúng tôi, cần chú ý một số giải pháp đột phá.

Giải pháp đột phá dựa trên kết quả nhiều nghiên cứu về tình trạng ATGT nước ta, cũng như thể hiện qua các quan điểm của Đảng, Nhà nước, đã chỉ ra rằng: Nguyên nhân chính của tình trạng TNGT hiện nay là do văn hóa giao thông còn kém, là hệ quả từ cả chủ quan nhận thức của người tham gia giao thông lẫn do các chế tài pháp luật chưa đủ mạnh để mang tính răn đe, phòng ngừa; đáng chú ý 2 vấn đề là tình hình TNGT diễn ra ở nhóm tuổi 15 - 25 và nguyên nhân do sử dụng rượu, bia khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông. Đồng thời, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn trong đầu tư nguồn lực xây dựng kết cầu hạ tầng GTVT hiện đại; dựa trên quyết tâm và đặc thù của hệ thống chính trị, có thể chọn khâu đột phá là nâng cao văn hóa, quyền và trách nhiệm của người tham gia giao thông, lực lượng chức năng bảo đảm TTATGT.

Thứ nhất, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về bảo đảm TTATGT. Cần thực hiện mạnh mẽ văn hóa giao thông trong một đất nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật. Cần xác định rằng, một chút tình cảm, một chút linh động, nể nang, có thể dẫn tới hậu quả khôn lường. Thực tế ở các nước đã từng thành công trong chấn chỉnh tình trạng ATGT, các cơ quan chức năng đều phải rất mạnh tay trong xử lý các vi phạm, nhằm tạo tính răn đe, phòng ngừa trước đối với các hành vi gây mất TTATGT, TNGT. Ở Việt Nam hiện nay cần mạnh tay xử lý các trường hợp vi phạm TTATGT nghiêm trọng, gây TNGT dẫn tới tử vong; các hành vi sử dụng rượu, bia khi lái xe; chống người thi hành công vụ; đẩy mạnh hình thức “phạt nguội”,…

Hiệu lực, hiệu quả của pháp luật còn thể hiện ở sự công bằng, minh bạch trong xử lý các vi phạm. Đặc biệt, với người thi hành công vụ mà vi phạm thì càng cần xử phạt nghiêm khắc hơn. Đảng, Nhà nước, lực lượng chức năng cần tuyên truyền, quán triệt, đẩy mạnh đạo đức công vụ trong lĩnh vực ATGT để thực sự tạo được một đội ngũ hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Thứ hai, cần xây dựng một xã hội có văn hóa tham gia giao thông cao. Văn hóa tham gia giao thông thể hiện trên nhiều mặt, từ khả năng, kỹ năng điều khiển phương tiện, nhận thức rõ trách nhiệm và nghĩa vụ khi tham gia giao thông (như không sử dụng rượu, bia, chất kích thích gây mất tập trung khi điều khiển phương tiện; khi không đủ sức khỏe điều khiển phương tiện hoặc phương tiện không đủ điều kiện tham gia giao thông,…) cho đến ứng xử với các tình huống xảy ra khi tham gia giao thông (như va chạm giao thông, giúp đỡ người gặp TNGT, đứng về phía cái đúng, cái tốt trong tham gia giao thông,...), sự hợp tác với cộng đồng và lực lượng chức năng khi xảy ra sự cố, tai nạn giao thông… Đồng thời, văn hóa giao thông còn là nếp sống văn minh của những người có cuộc sống gắn với hạ tầng giao thông, như những người sinh sống, làm ăn trên các vỉa hè, cần ứng xử văn minh với lòng đường và người tham gia giao thông một cách văn hóa.

Muốn vậy, cần chú trọng thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự ATGT, về tình hình TNGT cho nhân dân. Công tác tuyên truyền phải bảo đảm đồng bộ, khoa học, tính đảng, tính nhân dân, với phương châm là “dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo”, tạo được niềm tin, sự đồng thuận trong nhân dân và có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để tạo ra phong trào toàn dân thực hiện bảo đảm TTATGT, văn hóa tham gia giao thông.

Cần đẩy mạnh việc giáo dục văn hóa tham gia giao thông trong các trường học để tạo dựng các thế hệ có ý thức, trách nhiệm về bảo đảm TTATGT trước khi họ trực tiếp tham gia giao thông. Trẻ em, học sinh tuy hầu như chưa trực tiếp điều khiển phương tiện nhưng lại là nhóm tham gia giao thông cùng bố mẹ và dễ chịu tổn thương do TNGT; cũng có thể giúp nhóm này có nhận thức, ý thức nhắc nhở phụ huynh, người vận chuyển mình về thực hiện ATGT. Đặc biệt phát huy vai trò của cộng đồng, của các tổ chức vận động thanh niên vận động nâng cao văn hóa giao thông cho nhóm tuổi 15 - 25 - nhóm đang chiếm tỷ lệ cao nhất trong số nạn nhân TNGT; cần tạo được một làn sóng trong thanh niên thực hiện phong trào văn hóa tham gia giao thông./.
------------------------------

(1) Báo cáo số 110/BC-UBTVQH12, ngày 2-5-2008, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII, Báo cáo kết quả giám sát việc thi hành pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông