Thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu: Những tín hiệu ban đầu
TCCS - Việc đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) phù hợp với chủ trương tăng cường quan hệ nhiều mặt, nhất là quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU). EVFTA mở ra cơ hội lớn để Việt Nam gia tăng trao đổi thương mại và thu hút đầu tư từ các quốc gia thành viên EU. Trên thực tế, đã có những dữ liệu cho thấy một số tác động ban đầu tích cực đối với Việt Nam về trao đổi thương mại, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cải cách thể chế..., tuy nhiên, một số lĩnh vực của Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn từ việc thực hiện hiệp định này.
Những cam kết từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) được đánh giá là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới toàn diện, chất lượng cao. Hiệp định gồm 17 chương, 8 phụ lục, 2 nghị định thư, 2 biên bản ghi nhớ và 4 tuyên bố chung điều chỉnh nhiều vấn đề, bao gồm: thương mại hàng hóa (các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh, an toàn thực phẩm (SPS), các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ, đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý - thể chế(1).
Các cam kết cắt giảm thuế quan và thuận lợi hóa thương mại trong EVFTA ở mức độ cao. Theo lộ trình, EU sẽ xóa bỏ đến hơn 85% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Như vậy, có thể nói, gần 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn(2).
Còn về phía Việt Nam, chúng ta cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch xuất khẩu của EU ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 10 năm, mức xóa bỏ này tương ứng là 98,3% số dòng thuế và 99,8% kim ngạch xuất khẩu của EU. Khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, Việt Nam áp dụng lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)(3). Thỏa thuận cũng có các điều khoản cụ thể để giải quyết các rào cản phi thuế quan trong lĩnh vực ô-tô và sẽ bảo vệ một số sản phẩm thực phẩm và đồ uống truyền thống của châu Âu tại Việt Nam thông qua bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Qua hiệp định này, các công ty EU sẽ có thể tham gia đấu thầu bình đẳng với các công ty trong nước của Việt Nam(4).
So với các FTA đa phương mà Việt Nam đã và đang tham gia, tính tới thời điểm ký kết, phạm vi cam kết trong EVFTA được đánh giá là rộng nhất. Không chỉ có vậy, mức độ cam kết của Việt Nam cũng như cam kết mà một đối tác EU dành cho Việt Nam cũng được đánh giá là cao so với các hiệp định FTA mà Việt Nam đã ký kết(5). Phía EU nhận định EVFTA là hiệp định thương mại toàn diện nhất mà khối này ký kết với một nước đang phát triển(6).
Một số tác động ban đầu đối với Việt Nam
Tác động về trao đổi thương mại Việt Nam - EU
Những cam kết mạnh mẽ trong lĩnh vực mở cửa thị trường hàng hóa sẽ mở ra cơ hội phát triển thương mại mới giữa Việt Nam và EU, vì vậy những tác động trực tiếp và rõ nhất được thể hiện trong trao đổi thương mại Việt Nam - EU.
Số liệu thống kê cho thấy, năm 2019, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước thành viên EU (28 nước) đạt trên 56,4 tỷ USD, chiếm gần 11% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của cả nước. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đạt 41,54 tỷ USD, giảm 0,81% so với năm 2018, chiếm 15,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong khi nhập khẩu từ EU của Việt Nam là 14,9 tỷ USD, tăng 7,4%, chiếm 5,9% kim ngạch(7).
Bước sang những tháng đầu năm 2020, đại dịch COVID-19 đã tác động trực tiếp đến hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam nói chung. Mặc dù vậy, trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước EU cũng có nhiều thay đổi tích cực, nguyên nhân được đánh giá là nhờ thực hiện EVFTA, thể hiện trên một số khía cạnh chính sau:
Ngay sau khi EVFTA có hiệu lực từ đầu tháng 8-2020, đến tháng 11-2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đạt 12,4 tỷ USD, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2019 và cải thiện so với mức giảm 5,9% trong 7 tháng đầu năm 2020. Nhờ đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sau giai đoạn sụt giảm mạnh trong 7 tháng đầu năm 2020 do tác động của đại dịch COVID-19 đã dần thu hẹp kể từ tháng 8-2020 và tính chung cả năm 2020, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ giảm trên 3,5%.
Một số mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang EU ghi nhận mức tăng trưởng khả quan so với trước khi EVFTA có hiệu lực. Kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong 4 tháng sau khi EVFTA có hiệu lực tăng 47,4% so với cùng kỳ năm 2019, tăng mạnh hơn so với mức tăng 15,3% trong 7 tháng đầu năm 2020; xuất khẩu hàng thủy sản tăng 8,7% so với mức giảm 15,6%; xuất khẩu phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 24,7% so với mức giảm 16,4%...(8).
Tuy nhiên, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU có sự sụt giảm mạnh trong năm 2020 là điện thoại và linh kiện (đạt 10,06 tỷ USD, giảm 18,6%); hàng dệt may (đạt 3,68 tỷ USD, giảm 15%) do xu hướng chung của thị trường (giảm tương ứng 0,4% và 9,2% so với năm 2019)(9). Nguyên nhân chủ yếu được đánh giá là vì nhu cầu tiêu dùng tại thị trường EU giảm do tác động của dịch bệnh COVID-19. Mặc dù vậy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU có xu hướng giảm chậm lại, chỉ giảm 7,2% trong 4 tháng sau khi EVFTA có hiệu lực, so với mức giảm 15,3% trong 7 tháng đầu năm 2020(10).
Đối với kim ngạch nhập khẩu từ EU, trong 4 tháng sau khi EVFTA có hiệu lực, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ EU đạt 5,06 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2019, cao hơn so với mức tăng 3% trong 7 tháng đầu năm 2020 (trước khi EVFTA có hiệu lực). Trong 4 tháng sau khi EVFTA có hiệu lực, nhập khẩu một số mặt hàng từ thị trường EU tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2019, như thức ăn gia súc và nguyên liệu; sản phẩm từ sắt thép; chế phẩm thực phẩm khác; thuốc trừ sâu và nguyên liệu; kim loại thường. Trong khi nhập khẩu nhiều mặt hàng vẫn giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2019. Cụ thể, nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng từ thị trường EU mặc dù vẫn giảm, nhưng mức giảm đã chậm lại, với mức giảm trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 11-2020 là 8,3%, thấp hơn so với mức giảm 19,4% trong 7 tháng đầu năm 2020(11).
Tác động về thu hút vốn FDI từ EU
Với các cam kết tự do hóa đầu tư trong EVFTA, các doanh nghiệp EU sẽ được hưởng ưu đãi hơn khi đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Đồng thời, những điều chỉnh, sửa đổi quy định pháp luật của Việt Nam để phù hợp với EVFTA trong một số lĩnh vực như sở hữu trí tuệ cũng sẽ góp phần giúp các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp EU nói riêng được hưởng sự bảo hộ cao hơn đối với hoạt động đầu tư sáng tạo. Do vậy, EVFTA được đánh giá sẽ tạo ra những cơ hội lớn để Việt Nam có thể thu hút các nhà đầu tư từ EU, nhất là trong các lĩnh vực như công nghiệp chế biến, chế tạo, sử dụng công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, dịch vụ...
Trong 9 tháng đầu năm 2020, tổng vốn đầu tư của EU vào Việt Nam đạt 752 triệu USD, tăng hơn 100 triệu USD và 180 dự án so với trước khi EVFTA có hiệu lực(12). Ngay sau khi EVFTA có hiệu lực, Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) đã đưa ra những câu hỏi khảo sát về mức độ tác động của Hiệp định đối với kế hoạch kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên. Theo đó, 1/3 số lượng người trả lời cho rằng, Hiệp định này là một phần quan trọng trong quyết định đầu tư vào Việt Nam của họ với hai yếu tố hàng đầu được dự đoán sẽ thúc đẩy tăng trưởng là cắt giảm thuế quan (33%) và tiếp cận thị trường dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư (13%)(13). Cũng theo đại diện của EuroCham, khi EVIPA có hiệu lực sẽ cùng với EVFTA mang lại cho các nhà đầu tư EU sự tin tưởng tốt hơn khi lựa chọn kinh doanh tại Việt Nam, đồng thời giúp thu hút thêm vốn đầu tư lớn hơn từ các quốc gia EU trong tương lai.
Tuy vậy, Việt Nam cũng đang đứng trước một số thách thức trong quá trình thực thi EVFTA nhằm tăng cường thu hút FDI từ EU một cách hiệu quả, như cải cách về thể chế, chính sách, cơ chế quản lý; nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, cải thiện trình độ công nghệ và nguồn nhân lực; nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng hợp tác với đối tác EU của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu...
Tác động về cải cách thể chế của Việt Nam
EVFTA bao gồm những quy định, quy tắc chặt chẽ về thủ tục đầu tư, hải quan, thuận lợi hóa thương mại, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp kiểm dịch động, thực vật, sở hữu trí tuệ, mua sắm của chính phủ, phát triển bền vững... Việc thực hiện EVFTA đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật trong nước hiện hành và tiến hành xây dựng, sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan để tạo điều kiện thực thi đầy đủ, hiệu quả các cam kết đã có trong Hiệp định. EVFTA cũng là cơ hội để Việt Nam tiếp tục cải cách thể chế - pháp luật theo hướng tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, nhờ đó góp phần hiện thực hóa các lợi ích được kỳ vọng từ Hiệp định.
Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đã chủ động triển khai các hoạt động trên lĩnh vực này. Ngay từ trước khi ký kết EVFTA, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp khẩn trương rà soát các quy định hiện hành trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi phụ trách để từ đó đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung hoặc hình thức áp dụng phù hợp nhằm bảo đảm phù hợp với các yêu cầu của EVFTA(14).
Ngay sau khi EVFTA có hiệu lực, ngày 6-8-2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1201/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). Kế hoạch hành động này xác định rõ mục tiêu, các nhiệm vụ chủ yếu và các bộ, ngành có liên quan trong việc thực hiện với lộ trình cụ thể. Trong đó, một trong các nhiệm vụ chủ yếu được xác định là công tác xây dựng pháp luật, thể chế. Tiếp đó, Văn phòng Chính phủ ban hành Công văn số 6548/VPCP-QHQT, ngày 10-8-2020, về Phụ lục kèm theo Quyết định số 1201/QĐ-TTg, với hai trong những nội dung công việc được nêu cụ thể là giao cho một số bộ, ngành nhiệm vụ: Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật và trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành theo đúng với lộ trình đã quy định của EVFTA; ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật và trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành theo đúng với lộ trình đã quy định của EVFTA(15).
Triển khai Kế hoạch thực hiện EVFTA của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương của Việt Nam cũng đã ban hành những quyết định thực hiện EVFTA trong phạm vi lĩnh vực quản lý của mình. Tính đến tháng 10-2020, đã có 18 bộ, ngành và 57 địa phương của Việt Nam ban hành và triển khai thực hiện các văn bản liên quan tới lĩnh vực được phân công phụ trách(16).
EVFTA là một hiệp định thế hệ mới, toàn diện, bao gồm nhiều lĩnh vực và ngành, nghề, với nhiều thể chế pháp lý quy định hơn và phức tạp hơn. Điều này cũng đặt ra thách thức để Chính phủ, các bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phối hợp để hiểu rõ và tuân thủ đầy đủ về các tiêu chuẩn cũng như yêu cầu nêu ra trong Hiệp định.
Đối với Việt Nam, EVFTA được kỳ vọng có thể giúp GDP tăng bình quân đến 3,2% trong giai đoạn 5 năm đầu thực hiện, bình quân tăng 5,3% cho 5 năm tiếp theo và lên đến 7,72% cho 5 năm sau đó. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nếu thực hiện đồng thời cả EVFTA và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì GDP của Việt Nam có thể tăng thêm tới 3,2% trong thập niên 2021 - 2030. Với cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ, cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế của EU, EVFTA dự kiến sẽ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu sang EU khoảng 42% vào năm 2025 và gần 45% vào năm 2030 so với trước khi chưa có Hiệp định, cũng như tăng thu hút vốn FDI vào Việt Nam(17). Trên thực tế, hiện nay, những tác động thực sự của EVFTA đối với kinh tế Việt Nam chưa được như kỳ vọng và dự đoán trước đó, đồng thời mức độ tác động của EVFTA chưa rõ nét, một phần là do những tác động của dịch bệnh COVID-19. Tuy nhiên, EVFTA đã mang lại những tác động tích cực, dù là ban đầu đối với Việt Nam, thể hiện trên một số khía cạnh như kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút vốn FDI từ EU, trong hoạt động cải cách thể chế và môi trường kinh doanh. EVFTA được đưa vào thực thi mang ý nghĩa quan trọng giúp bù đắp sự suy giảm của nền kinh tế trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19. Từ phía doanh nghiệp, EVFTA còn được khẳng định sẽ mang đến cơ hội thị trường đa dạng hơn, giúp doanh nghiệp lấy lại đà tăng trưởng hậu đại dịch COVID-19.
Bên cạnh những tác động tích cực, mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam, những cam kết mở cửa thị trường với hàng hóa, dịch vụ mà Việt Nam dành cho EU cũng tạo ra sức ép cạnh tranh nhất định, những thách thức trong dài hạn đối với nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam. Tuy nhiên, đây là sức ép cạnh tranh lành mạnh, có chọn lọc và theo lộ trình phù hợp.
Ngoài ra, EVFTA cũng dành một chương về minh bạch hóa với các yêu cầu chung nhằm bảo đảm môi trường pháp lý hiệu quả và có thể dự đoán được cho các chủ thể kinh tế, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư EU quan tâm tới những điều chỉnh chính sách của Việt Nam để phù hợp với các quy định của EU(18). Vì vậy, điều này đòi hỏi Việt Nam tiếp tục thúc đẩy cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thể chế, chính sách, pháp luật... theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Có thể thấy, những tác động của EVFTA đối với Việt Nam có sự khác biệt giữa các ngành và lĩnh vực khác nhau, đồng thời không chỉ diễn ra và tập trung vào thời điểm ngay sau khi EVFTA có hiệu lực mà có thể kéo dài nhiều năm vì Việt Nam có lộ trình xóa bỏ thuế quan dài, từ 7 đến 10 năm. Điều này đòi hỏi Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân Việt Nam phải tiếp tục chủ động, tích cực và nỗ lực hơn nữa trong việc thực thi có hiệu quả các cam kết trong EVFTA, cũng như các kế hoạch thực hiện Hiệp định này như đã đề ra./.
----------------------
(1) Lê Thị Diễm Quỳnh: “Quốc hội phê chuẩn hai hiệp định EVFTA và EVIPA”, https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/599/5117/quoc-hoi-phe-chuan-hai-hiep-dinh-evfta-va-evipa.aspx
(2) Thu Hường: “Xuất khẩu năm 2020: Kỳ vọng từ các hiệp định thương mại”, http://consosukien.vn/xuat-khau-nam-2020-ky-vong-tu-cac-hiep-dinh-thuong-mai.htm
(3) Bộ Công Thương: “Các cam kết của Việt Nam và EU trong một số lĩnh vực chính của Hiệp định EVFTA và IPA”, http://evfta.moit.gov.vn/?page=overview&category_id=2809fd0e-b509-41c4-aa5f-fc2257d628c2
(4) European Commission: “Commission presents EU-Vietnam trade and investment agreements for signature and conclusion”, http://trade.ec.europa.eu/doclib/press/index.cfm?id=1921
(5) Bộ Công Thương: “Giới thiệu chung về hiệp định EVFTA và IPA”, http://evfta.moit.gov.vn/?page=
overview&category_id=fb203c7b-54d6-4af7-85ca-c51f227881dd
(6) Hà Chính: “EVFTA có hiệu lực từ 1/8: Cột mốc trọng đại”, http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/EVFTA-co-hieu-luc-tu-18-Cot-moc-trong-dai/402718.vgp
(7) Bộ Công Thương: “Quan hệ song phương Việt Nam - EU”, http://evfta.moit.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_id=13caec66-a1f8-4b9c-9066-b25657f4d36d&id=fe64a293-2b69-4c37-b1e0-cdd062451769
(8) Bộ Công Thương: “Chuyên san Thương mại Việt Nam - EU”, http://evfta.moit.gov.vn/data/7d80034a-9a2a-4c93-8046-df701661850/userfiles/files/Chuyen%20san%20EU-1.pdf
(9) Tổng cục Hải quan: “Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và 12 tháng năm 2020”, https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1901&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20k%E1%BB%B3&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch
(10), (11) Bộ Công Thương: “Chuyên san Thương mại Việt Nam - EU”, http://evfta.moit.gov.vn/data/7d80034a-9a2a-4c93-8046-9df701661850/userfiles/files/Chuyen%20san%20EU-1.pdf
(12) Mai Lâm: “Nhiều ‘trái ngọt” sau 4 tháng triển khai EVFTA”, http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2020-12-16/nhieu-trai-ngot-sau-4-thang-trien-khai-evfta-96952.aspx
(13) Lê Anh: “Doanh nghiệp châu Âu lạc quan khi hoạt động kinh doanh phục hồi” http://baochinhphu.vn/Doanh-nghiep/Doanh-nghiep-chau-Au-lac-quan-khi-hoat-dong-kinh-doanh-phuc-hoi/415227.vgp
(14) Bộ Công Thương: “Tác động của Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) đối với Việt Nam”, http://evfta.moit.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_id=13caec66-a1f8-4b9c-9066-b25657f4d36d&id=74e3c98e-0290-4673-9e76-6d824f186832
(15) Văn phòng Chính phủ: “Công văn số 6548/VPCP-QHQT ngày 10 tháng 8 năm 2020 về việc Phụ lục kèm theo Quyết định số 1201/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định EVFTA của Chính phủ”, http://evfta.moit.gov.vn/data/7d80034a-9a2a-4c93-8046-df701661850/userfiles/files/1597074730107594.pdf
(16) Bộ Công Thương: “Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) của Chính phủ”, http://evfta.moit.gov.vn/default.aspx?page=overview&category_id=8c1a3874-621f-4691-a27c-b26a8cc0995a
(17) Nguyễn Quang Vũ: “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: EVFTA như “tuyến đường cao tốc lớn” nối gần EU với Việt Nam”, https://news.vnanet.vn/?created=365%20day&keyword=EVFTA&servicecateid=1& scode=1&qcode=17
(18) Lê Quân: “Đại sứ EU: Minh bạch hóa chính sách là cách tốt để thâm nhập chuỗi giá trị toàn cầu”, https://baodautu.vn/dai-su-eu-minh-bach-hoa-chinh-sach-la-cach-tot-de-tham-nhap-chuoi-gia-tri-toan-cau-d128545.html
Bước tiến mới trong quan hệ hợp tác ASEAN - EU  (11/05/2021)
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam  (21/04/2021)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên