Những thành tích của ngành tài chính trong năm 2018 và giải pháp cho năm 2019 nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà tăng trưởng bền vững
TCCS - Vượt qua những khó khăn, thách thức, kinh tế Việt Nam năm 2018 đã đạt những kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: tăng trưởng GDP đạt 7,08%, mức cao so với các nước trong khu vực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức 3,54%; tỷ giá ngoại tệ được kiểm soát tốt; môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện… Ngành tài chính có sự đóng góp chủ động, tích cực vào những thành công chung của đất nước.
Những kết quả đạt được
Năm 2018, toàn ngành tài chính đoàn kết, quyết tâm, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trên các lĩnh vực quản lý, hoàn thành tốt nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2018, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể:
Một là, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu, chi NSNN và tài chính công năm 2018 đạt kết quả khá toàn diện.
Ngành tài chính đã cơ bản hoàn thành những mục tiêu quan trọng của Nghị quyết số 07/NQ-TW, ngày 18-11-2016, của Bộ Chính trị, về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững và Nghị quyết số 25/2016/QH14, ngày 09-11-2016, của Quốc hội, về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020 đối với các nội dung động viên thu NSNN, tỷ trọng chi NSNN cho đầu tư phát triển, bội chi NSNN và nợ công so với GDP.
Ngay từ đầu năm 2018, Bộ Tài chính đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phương án điều hành NSNN theo các kịch bản tăng trưởng kinh tế, nhằm bảo đảm cân đối ngân sách các cấp, giữ bội chi NSNN trong phạm vi dự toán trong mọi tình huống. Đồng thời, có văn bản hướng dẫn các địa phương tổ chức thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2018 với các giải pháp điều hành chủ động, tích cực.
Triển khai nhiệm vụ thu NSNN năm 2018, Bộ Tài chính đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và chính quyền địa phương để làm tốt công tác quản lý thu, chú trọng khai thác nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế (cả đối tượng và địa bàn); đẩy mạnh chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại; quyết liệt xử lý nợ thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế,... Đồng thời chú trọng cải cách hành chính, tạo thuận lợi, giảm thời gian, chi phí cho người nộp thuế.
Bộ Tài chính chủ động, tích cực thực hiện công tác điều hành chi NSNN, với phương châm chặt chẽ, tiết kiệm xuyên suốt từ khâu phân bổ dự toán cho đến quá trình thực hiện. Các bộ, ngành và địa phương đã chủ động rà soát, sắp xếp, thực hiện chi, gắn với sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; thực hiện mua sắm tài sản công theo đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả. Tăng cường công khai, minh bạch sử dụng NSNN.
Cùng với kinh tế tăng trưởng cao hơn kế hoạch, kết hợp với các giải pháp đã thực hiện, thu cân đối NSNN năm 2018 vượt 7,8% so với dự toán, trong đó thu ngân sách trung ương vượt 4,3%, thu ngân sách địa phương vượt 12,5%; tỷ lệ động viên đạt khoảng 25,7% GDP, riêng thuế và phí trên 21,1% GDP (mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020 tương ứng là 23,5% GDP và 21% GDP); tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN đạt 80,6% (năm 2015 là 75%). Qua đó, Bộ Tài chính bảo đảm được các nhiệm vụ chi theo dự toán và có thêm nguồn lực để xử lý các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phát sinh về đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh. Cơ cấu chi ngân sách chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt trên 27% (mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020 là 25% - 26%), tỷ trọng chi thường xuyên giảm còn dưới 62% tổng chi NSNN.
Bội chi NSNN năm 2018 dưới 3,6% GDP (dự toán là 3,7% GDP); nợ công khoảng 61% GDP. Quản lý nợ công có tiến bộ, thời hạn khoản vay tiếp tục được kéo dài, lãi suất theo xu hướng hạ thấp, hạn chế tác động của các rủi ro.
Hai là, thể chế chính sách lĩnh vực tài chính - NSNN tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện.
Năm 2018, Bộ Tài chính đã trình Quốc hội cho ý kiến đối với Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi); trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết; trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 48/53 đề án (gồm: 25 nghị định, 10 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 13 đề án khác); ban hành theo thẩm quyền 130 thông tư, tập trung vào các cơ chế, chính sách, các giải pháp tài chính nhằm tăng cường quản lý thu, chi NSNN chặt chẽ, hiệu quả, tăng cường quản lý sử dụng tài sản công. Đáng chú ý là đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành đồng bộ, đầy đủ, kịp thời các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật quản lý, sử dụng tài sản công và Luật Quản lý nợ công; tạo cơ sở để tổ chức triển khai tốt các luật này.
Mặc dù khối lượng văn bản được giao chủ trì xây dựng là khá lớn, song với quyết tâm cao, Bộ Tài chính đã hoàn thành nhiệm vụ được giao (trong tổng số 163 nghị định Chính phủ đã ban hành trong năm 2018, có 31 nghị định do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo, chiếm gần 20%), cơ bản đáp ứng được yêu cầu đề ra cả về tiến độ và chất lượng. Đồng thời, đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến văn bản, chính sách, chế độ mới; tăng cường đối thoại, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực thuế và hải quan.
Ba là, tiếp tục triển khai quyết liệt cải cách hành chính (CCHC); đẩy mạnh sắp xếp lại tổ chức bộ máy, biên chế.
Thực hiện Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP, ngày 15-5-2018, của Chính phủ, về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo, trong năm 2018, Bộ Tài chính đã hoàn thành 85/85 nhiệm vụ CCHC theo kế hoạch đề ra; đã bãi bỏ 18 thủ tục hành chính trong tổng số 166 thủ tục cần rà soát bãi bỏ (chiếm 10,8%) và đơn giản hóa đối với 111 thủ tục trong tổng số 139 thủ tục cần rà soát đơn giản hóa (chiếm 79,9%); thực hiện cắt giảm và đơn giản hóa 117/190 điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý (đạt 61,6%). Đồng thời, tập trung mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, điện tử hóa trong lĩnh vực thuế, hải quan và kết nối thông tin nộp thuế điện tử với các ngân hàng thương mại; mở rộng thực hiện hoàn thuế điện tử. Đến nay, hệ thống khai thuế qua mạng đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố với 99,92% số doanh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế qua mạng; 98,41% số doanh nghiệp đăng ký tham gia nộp thuế điện tử; hoàn thuế theo phương thức điện tử chiếm tỷ trọng 93,14% tổng số hồ sơ được hoàn thuế. Tổng số dịch vụ công trực tuyến cơ quan hải quan đạt tối thiểu mức độ 3 là 173/183 thủ tục hành chính; đã có 12/14 bộ, ngành tham gia kết nối Cổng thông tin một cửa quốc gia với 145/284 thủ tục hành chính được thực hiện qua cơ chế một cửa quốc gia. Những nỗ lực nêu trên của ngành tài chính đã nhận được sự đánh giá cao của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế, góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị khóa XI, về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tính đến ngày 31-12-2018, Bộ Tài chính đã thực hiện cắt giảm 4,7% so chỉ tiêu biên chế được giao. Bộ tích cực triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW, về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII. Trong năm 2018, Bộ Tài chính đã cắt giảm được 536 đầu mối, trong đó 5 đơn vị cấp phòng và tương đương thuộc các vụ/cục thuộc cơ quan Bộ; 3 cấp phòng thuộc đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ; 25 đơn vị cấp phòng thuộc cơ quan tổng cục; 67 đơn vị cấp chi cục và tương đương; 436 đơn vị cấp tổ (đội) tại địa phương.
Bốn là, quản lý chặt chẽ giá cả, kiểm soát lạm phát góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô.
Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương quản lý, kiểm soát chặt chẽ giá cả các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu (xăng dầu, than, dịch vụ y tế, giáo dục); tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đăng ký, kê khai giá; xử lý nghiêm các hành vi mua bán, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện bình ổn thị trường trong các dịp lễ, tết,... góp phần thực hiện thành công mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% được Quốc hội đề ra. Năm 2018, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 3,54%, lạm phát cơ bản bình quân tăng 1,48% so với năm 2017.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển các thị trường chứng khoán, bảo hiểm và thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Trong bối cảnh thị trường chứng khoán thế giới có nhiều biến động, hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2018 nhìn chung ổn định, quy mô thị trường đến ngày 24-12-2018 đạt khoảng 78% GDP, vượt mục tiêu 70% GDP vào năm 2020; tổng giá trị giao dịch bình quân phiên đạt khoảng 6.603 tỷ đồng/phiên, tăng 30% so với bình quân năm 2017; số lượng tài khoản của nhà đầu tư tiếp tục tăng cao, đạt trên 2,1 triệu tài khoản, tăng 12,8% so với cuối năm 2017.
Hoạt động của thị trường bảo hiểm năm 2018 cũng ghi nhận bước phát triển tốt, với 64 doanh nghiệp đang hoạt động. Tổng doanh thu phí bảo hiểm năm 2018 ước tăng 24%, tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tăng 21,1%, vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng 29,5% so với năm 2017.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các đề án, chính sách về sắp xếp, đổi mới quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành nghị định sửa đổi, bổ sung về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp và 7 nghị định về điều lệ và tổ chức hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty. Đồng thời, Bộ Tài chính tích cực phối hợp, đôn đốc với các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Năm 2018, có 19 doanh nghiệp được phê duyệt phương án cơ cấu lại, 15 doanh nghiệp được phê duyệt phương án cổ phần hóa; 21 doanh nghiệp thực hiện bán cổ phần lần đầu. Các tập đoàn, tổng công ty đã thực hiện đấu giá cổ phần, thoái vốn thu về cho Nhà nước gần 40 nghìn tỷ đồng.
Sáu là, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công.
Triển khai thực hiện Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành 13 nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 1 quyết định (đạt 100% kế hoạch) và ban hành 7 thông tư hướng dẫn. Đồng thời, Bộ đã tổ chức tập huấn, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong quản lý, sử dụng tài sản công.
Bảy là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách.
Bộ Tài chính đã thực hiện 98,66 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó kiến nghị: 1- Xử lý về tài chính trên 23,14 nghìn tỷ đồng, riêng kiến nghị thu nộp NSNN là 17,94 nghìn tỷ đồng, đã thực hiện thu vào 16,6 nghìn tỷ đồng, bằng 92,5% tổng số kiến nghị; 2- Xử phạt vi phạm hành chính 4,2 nghìn tỷ đồng; 3- Giảm lỗ 37,4 nghìn tỷ đồng.
Bộ Tài chính cũng đã tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương triển khai đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; đã bắt giữ 15,54 nghìn vụ buôn lậu, gian lận thương mại; thu nộp NSNN khoảng 307 tỷ đồng; cơ quan hải quan đã khởi tố 62 vụ, chuyển cơ quan khác khởi tố 130 vụ; đã bắt giữ 191 vụ vi phạm liên quan đến chất ma túy.
Một số giải pháp phát triển cho năm 2019
Đất nước ta bước vào năm 2019 là năm thứ tư của kế hoạch 5 năm 2016 - 2020, có ý nghĩa quan trọng quyết định thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của cả giai đoạn 5 năm. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; căng thẳng thương mại giữa các nước lớn chưa có xu hướng hạ nhiệt; rủi ro về giá dầu và các yếu tố bất định trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; bất ổn địa - chính trị, chủ nghĩa bảo hộ và các thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến ngày càng phức tạp. Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm; diễn biến thời tiết, thiên tai bất thường; nguy cơ dịch bệnh bùng phát, có tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế - xã hội và việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2019.
Đồng thời, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng ngành tài chính cũng vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục, như giải ngân vốn đầu tư công chậm; cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chuyển biến chưa rõ nét; cơ cấu lại nền kinh tế và đầu tư công còn chậm; nợ nước ngoài của quốc gia còn ở mức cao (khoảng 49,7% GDP, sát mức giới hạn 50% GDP); việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật tài chính ở một số đơn vị còn chưa nghiêm; tình trạng thất thoát, lãng phí còn xảy ra ở một số cơ quan, đơn vị... Những điều này cần quyết liệt khắc phục trong năm 2019 và các năm tiếp theo.
Để tiếp tục phát huy, kế thừa thành tích và khắc phục hạn chế, yếu kém của năm 2018, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2019, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tạo đà tăng trưởng bền vững cho các năm tới, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tập trung hoàn thiện thể chế theo kế hoạch đã đề ra; thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính, hiện đại hóa, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, trọng tâm là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, góp phần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, khuyến khích khởi nghiệp, phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp.
Thứ hai, điều hành chính sách tài khóa chặt chẽ, phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác; thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại NSNN đã đề ra; quyết liệt công tác thu ngân sách; quản lý, điều hành chi ngân sách theo dự toán, chặt chẽ, tiết kiệm. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về thuế theo hướng mở rộng cơ sở thuế, chống xói mòn nguồn thu, cơ cấu lại nguồn thu, tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; phấn đấu tăng thu 5% so với dự toán Quốc hội giao và đạt tỷ lệ động viên ở mức 23,5% GDP. Điều hành chi NSNN theo dự toán, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tăng cường thực hành tiết kiệm; siết chặt kỷ cương, kỷ luật ngân sách. Kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN và nợ công; đến cuối năm 2019 dư nợ công khoảng 61% GDP.
Thứ ba, tiếp tục rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, biên chế, hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI; đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế hoạt động tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, thúc đẩy lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN đã đề ra.
Thứ tư, thực hiện quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với các mặt hàng quan trọng, Nhà nước còn định giá, bình ổn giá. Đẩy mạnh triển khai các giải pháp phát triển đồng bộ thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, bảo hiểm; nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính, kế toán, kiểm toán; đẩy mạnh phát triển thị trường phái sinh, trái phiếu doanh nghiệp và các sản phẩm mới.
Thứ năm, đẩy mạnh cấu trúc lại, cổ phần hóa DNNN theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, ngày 03-6-2017, về đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng đầu tư, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và công khai, minh bạch hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ sáu, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách trong xây dựng pháp luật, thực thi công vụ; đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và công khai, minh bạch việc sử dụng NSNN, tài sản công; thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra, kiểm toán./.
Nội dung Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng Ba  (10/04/2019)
Khai mạc Phiên họp thứ 33 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội  (10/04/2019)
Cử hành trọng thể Lễ tang Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên  (10/04/2019)
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự hiện hữu của kinh tế chia sẻ  (10/04/2019)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên