Về công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay

Chung Á PGS, TS. Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS Việt Nam
16:13, ngày 16-01-2017

TCCSĐT - HIV/AIDS vẫn đang là một đại dịch nguy hiểm, đe dọa tính mạng, sức khỏe con người và tương lai nòi giống của các quốc gia, các dân tộc trên toàn cầu. Nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển về kinh tế, văn hóa, an ninh trật tự và an toàn xã hội,… đe dọa sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài mối hiểm họa đó. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục có những biện pháp hữu hiệu trong phòng, chống HIV/AIDS.

Năm 1990, ở nước ta phát hiện ca nhiễm HIV đầu tiên tại Thành phố Hồ chí Minh. Thời đó, những hiểu biết về HIV/AIDS chưa được nhiều. Người ta coi “HIV/AIDS là đại dịch thế kỷ”, là “căn bệnh vô phương cứu chữa”, “AIDS là chết”… Sự hù dọa về HIV/AIDS quá mức trong những thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS rất nặng nề. Đặc biệt, chúng ta đã tập trung tuyên truyền về sự liên quan giữa lây nhiễm HIV/AIDS và các hành vi mua bán dâm và sử dụng ma túy dẫn đến sự nhận thức lệch lạc của nhân dân và cán bộ các cấp rằng, HIV/AIDS là do ma túy và mại dâm gây ra. Dường như trong xã hội có một sự mặc định là, những người nhiễm HIV/AIDS là những người nếu không sử dụng ma túy cũng là người liên quan đến mại dâm. Thân phận của những người nhiễm HIV/AIDS và những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS rất bi đát. Họ bị kỳ thị, phân biệt đối xử ngay tại gia đình mình, bị kỳ thị và phân biệt đối xử tại cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống, tại nơi làm việc, tại nhà trường và thậm chí trong các cơ sở y tế. Nhiều người bị chính cha mẹ mình đuổi ra khỏi nhà, bị tước đoạt quyền làm mẹ, quyền được nuôi dưỡng và học hành… Nhiều người nhiễm HIV/AIDS vì mặc cảm mà rời bỏ làng xóm, quê hương đến những vùng xa xôi khác nhằm giấu đi thân phận bị nhiễm HIV của mình. Và không ít những người trong số họ phải tìm đến cái chết. Công cuộc phòng, chống HIV/AIDS ở nước ta trong giai đoạn đó gặp rất nhiều khó khăn. Sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS là rào cản làm ảnh hưởng nặng nề đến công cuộc phòng, chống HIV/AIDS ở nước ta.

Nhận thức được HIV/AIDS là mối hiểm họa to lớn của nhân loại, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của giống nòi và sự phát triển bền vững của đất nước, năm 1992, Trung tâm Xã hội học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã xuất bản giáo trình: “HIV/AIDS và lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS ở nước ta” để giảng dạy cho học viên các lớp cao cấp chính trị trong hệ thống Học viện. Chương trình giảng dạy này đã góp phần giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp từ cơ sở đến trung ương từng bước hiểu được về HIV/AIDS, về mối hiểm họa to lớn của đại dịch đến sự phát triển bền vững của đất nước, hiểu được đầu tư cho công tác phòng, chống AIDS là đầu tư cho sự phát triển, hiểu được HIV/AIDS là bệnh tật nguy hiểm nhưng nếu thực hiện các hành vi an toàn thì hoàn toàn có thể ngăn chặn được sự lây nhiễm của nó và đặc biệt đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp hiểu được muốn lãnh đạo công tác phòng, chống AIDS thành công thì cần phải xóa bỏ triệt để sự kỳ thị, phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS.

Trước tình hình HIV/AIDS đang gia tăng trên cả nước, năm 1994 Chính phủ đã nâng cấp Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS từ trực thuộc Bộ Y tế thành một Ủy ban trực thuộc Chính phủ do một Phó Thủ tướng làm Chủ tịch. Chính phủ cũng xác định được HIV/AIDS không chỉ là vấn đề y tế mà còn là vấn đề xã hội cấp bách và quan trọng.

Trong lúc chưa tìm ra được vắc-xin để phòng ngừa HIV/AIDS thì việc trang bị kiến thức đầy đủ cho các tầng lớp nhân dân về HIV/AIDS, về cách thức phòng ngừa và truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, thực hiện các hành vi an toàn được coi như là loại “vắc-xin” hữu hiệu nhất ngăn ngừa sự lây nhiễm HIV. Bên cạnh đó, cần thiết phải tăng cường sự cam kết chính trị và hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống HIV/AIDS; từng bước xóa bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS, hoàn thiện và xây dựng bộ máy phòng, chống AIDS cũng như tăng cường nguồn lực cho phòng chống AIDS. Đó là những vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công cuộc phòng chống AIDS ở nước ta.

Để từng bước xóa bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS điều quan trọng lúc bấy giờ là việc thay đổi các thông điệp truyền thông, thay các thông điệp mang tính hù dọa sang các thông điệp mang tính cảnh báo, hướng dẫn, thay đổi tất cả các pa-nô, áp phích và thông điệp dễ dẫn đến sự xa lánh, ghét bỏ, tạo nên sự kỳ thị, phân biệt đối xử thành những thông điệp, những bài báo, những phóng sự và clip truyền hình về sự thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ. Ở mọi tuyến đường, ở các tỉnh thành, thôn xóm các khẩu hiệu, những pa-nô, áp phích đã đồng loạt thay đổi tạo nên cách hiểu, cách nhìn mới với dịch bệnh, với những người nhiễm HIV/AIDS và những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Các nhóm bạn giúp bạn, các nhóm giáo dục đồng đẳng đã được ra đời và mạng lưới các nhóm này ngày càng được mở rộng chẳng những ở các thành phố như Hà nội, Thành phố Hồ chí Minh mà còn ở hầu khắp các tỉnh thành khác như Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Bình, Cần Thơ, An giang, Thái Nguyên, Lai Châu, Thanh Hóa…

Trong phòng, chống AIDS yếu tố nguồn lực tài chính giữ một vai trò quan trọng. Sở dĩ công cuộc phòng, chống AIDS trên toàn cầu thu được những kết quả to lớn trong trong thời gian qua, bên cạnh sự cam kết mạnh mẽ về chính trị của các quốc gia còn do nguồn lực cho phòng, chống HIV/AIDS toàn cầu đã tăng từ 3 tỷ USD năm 2001 lên 15 tỷ USD năm 2015 và dự kiến 25 tỷ USD năm 2025 để kết thúc đại dịch vào năm 2030. Hiểu được tầm quan trọng của việc đầu tư nguồn lực cho phòng, chống HIV/AIDS, Chính phủ đã tăng đầu tư từ 15 tỷ đồng năm 1993 lên 50 tỷ rồi 150 tỷ đồng những năm đầu năm 2000. Bên cạnh việc tăng cường đầu tư bằng nguồn kinh phí trong nước chúng ta đã kêu gọi viện trợ và hỗ trợ quốc tế.

Ngày nay, khi chúng ta đã đạt được nhiều thành quả trong phòng chống HIV/AIDS, nhớ lại thời buổi ban đầu đầy cam go và khó khăn ấy, chúng ta có thể rút ra những bài học vô cùng quan trọng. Đó là, muốn phòng chống AIDS thành công, dù ở cấp độ nào, toàn cầu, khu vực, quốc gia hay ở cộng đồng thì nhân tố quan trọng hàng đầu là sự cam kết chính trị mạnh mẽ, là sự nhập cuộc vào công cuộc phòng, chống HIV/AIDS của các nhà lãnh đạo, những người có uy tín trong cộng đồng, những người nắm giữ vai trò quan trọng của sự phát triển. Đồng thời với sự cam kết chính trị là phải xây dựng cho được Chiến lược quốc gia phòng, chống AIDS với các mục tiêu và chương trình phòng, chống AIDS phù hợp, coi trọng các biện pháp dự phòng và chăm sóc điều trị, trong đó truyền thông bao giờ cũng giữ vị trí tiên quyết. Cần phải xây dựng hành lang pháp lý đủ sức để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia, chống lại và tiến tới xóa bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử, tôn trọng quyền con người và nêu cao vai trò của những người nhiễm HIV/AIDS và những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS trong hoạt động phòng, chống AIDS. Một nhân tố mang tính quyết định cho sự thành bại của công cuộc phòng, chống AIDS nữa là không bao giờ vì một khó khăn nào đó mà cắt giảm nguồn lực đầu tư cho phòng, chống AIDS vì nếu cắt giảm nguồn lực cho phòng, chống AIDS thì chắc chắn một làn sóng lây nhiễm HIV/AIDS mới sẽ lại bắt đầu tàn phá sự tồn tại và phát triển của các quốc gia.

Hiện nay, viện trợ quốc tế cho phòng, chống AIDS đang giảm dần và sẽ không còn viện trợ nữa trong những năm từ 2018 đến năm 2020. Hơn 10 năm qua hơn 80% nguồn lực cho phòng, chống AIDS dựa vào viện trợ nước ngoài với tổng kinh phí viện trợ hằng năm lên đến 80, 90 triệu USD tương đương trên 1.600 tỷ đồng. Từ năm 2016 kinh phí dành cho công tác tuyên truyền, giáo dục về HIV/AIDS giảm đáng kể so với vài năm trước đây. Nếu những năm tiếp theo Chính phủ không tiếp tục đầu tư cho công cuộc phòng, chống AIDS với những khoản kinh phí tương đương như vậy thì chắc chắn một làn sóng lan nhiễm HIV/AIDS mới sẽ tàn phá nặng nề đất nước chúng ta./.