Chính sách an ninh mới của Nhật Bản: Những tác động đối với khu vực Đông Nam Á

Nguyễn Trọng Kiên ThS, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng
15:31, ngày 14-10-2016

TCCS - Trong những năm qua, Nhật Bản tiếp tục đẩy mạnh chính sách tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á, nhất là trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và an ninh. Đây được xem là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của Chính phủ Thủ tướng Nhật Bản Sin-dô A-bê. Tuy nhiên, chính sách an ninh mới của Chính phủ Nhật Bản lại chứa đựng nhiều thay đổi mạnh mẽ và đáng chú ý, đặc biệt là Dự luật an ninh(1) mà Quốc hội nước này thông qua vào tháng 9-2015.

Nội dung cơ bản của chính sách an ninh mới

Kể từ khi tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai (tháng 12-2012), để thực hiện lời hứa và cam kết khi tranh cử, Thủ tướng Nhật Bản S. A-bê đã thúc đẩy các chương trình cải cách lớn, sâu rộng và mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế và an ninh. Về kinh tế, Thủ tướng S. A-bê đẩy nhanh thực thi kế hoạch phục hồi kinh tế, hay còn gọi là “chính sách kinh tế Abenomics”, để đưa kinh tế Nhật Bản thoát khỏi trì trệ, trở lại thời kỳ tăng trưởng và tích cực tham gia các thỏa thuận thương mại tự do. Về an ninh, chính phủ mới đưa ra chính sách “hòa bình tích cực”, nhằm nâng cao năng lực của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản, bảo đảm an ninh quốc gia, thắt chặt quan hệ đồng minh với Mỹ và phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhật Bản trong khu vực Đông Á cũng như trên thế giới.

Nội dung của chính sách an ninh mới bao gồm:

Thứ nhất, thắt chặt quan hệ đồng minh với Mỹ thông qua việc sửa đổi Văn bản Chỉ đạo hợp tác quốc phòng Nhật Bản - Mỹ (tháng 4-2015), với cơ chế mới tăng cường sự phối hợp một cách toàn diện, trong đó có cả việc đánh giá môi trường an ninh, lên kế hoạch ứng phó với mọi tình huống và kế hoạch phối hợp hành động thực tế, đồng thời mở rộng phương diện và phạm vi hợp tác quốc phòng. Bên cạnh đó, Nhật Bản khẳng định ủng hộ chiến lược “tái cân bằng”(2) của Mỹ tại châu Á.

Thứ hai, nâng cao năng lực của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản, mở rộng vai trò và phạm vi hoạt động, bao gồm hỗ trợ về hậu cần cho quân đội Mỹ và các nước khác trong các chiến dịch quốc tế; tích cực tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc; được phép kiểm tra tàu, cứu hộ người Nhật Bản ở nước ngoài.

Thứ ba, quân đội Nhật Bản có thể được triển khai để tham gia vào hoạt động tự vệ tập thể “self-collective defense” ở nước ngoài dưới ba điều kiện: 1-khi xảy ra một cuộc tấn công chống Nhật Bản hoặc chống một nước “bạn bè thân cận” với Nhật Bản, đe dọa sự sống còn của Nhật Bản và là mối nguy hiểm rõ ràng đối với cuộc sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc của người dân Nhật Bản; 2- khi không còn các biện pháp thích hợp khác để chống lại sự tấn công, bảo đảm sự sống còn và bảo vệ người dân Nhật Bản; 3- việc sử dụng vũ lực bị hạn chế đến mức tối thiểu cần thiết.

Tác động của chính sách an ninh mới

Tình hình an ninh, chính trị khu vực và quốc tế hiện nay có những thay đổi nhanh chóng và khó lường. Các cường quốc lớn, như Mỹ, Nga, Trung Quốc... tiếp tục điều chỉnh chiến lược để bảo đảm lợi ích và cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực Đông Á, nhất là Đông Nam Á. Trong bối cảnh đó, chính sách an ninh mới của Nhật Bản với những điều chỉnh nêu trên không chỉ thu hút sự quan tâm lớn của các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế, mà sẽ còn có những hệ quả không nhỏ tác động đến cục diện chính trị, an ninh, hòa bình và ổn định trong khu vực. Mặc dù Dự luật an ninh mới được Quốc hội Nhật Bản thông qua sẽ có hiệu lực trong vòng 6 tháng sau khi được ban hành, nhưng việc xem xét những hệ quả này đối với khu vực Đông Nam Á trong bối cảnh tình hình chính trị và an ninh hiện nay là rất cần thiết.

Một là, trong vài năm gần đây chính sách “hướng Nam” của Chính phủ Nhật Bản nhằm tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á, được dư luận đánh giá là sự “xoay trục” trong chính sách đối ngoại của quốc gia này. Chính sách này chiếm vị trí quan trọng trong Chiến lược an ninh quốc gia của Nhật Bản, với ưu tiên “cải thiện môi trường an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương” và “đóng vai trò lãnh đạo trong việc giải quyết tranh chấp”, nhằm thực hiện ba mục tiêu quan trọng: phục hồi kinh tế, bảo đảm an ninh hàng hải và mở rộng ảnh hưởng. Cùng với việc ghi nhận ảnh hưởng của Cộng đồng ASEAN đối với hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Chiến lược an ninh quốc gia của Nhật Bản cũng khẳng định “Nhật Bản sẽ tiếp tục hỗ trợ cho nỗ lực nhằm duy trì và củng cố đoàn kết ASEAN”.

Các nước Đông Nam Á đánh giá cao chính sách của Chính phủ Nhật Bản, hy vọng “chủ nghĩa hòa bình tích cực” sẽ có những đóng góp tích cực vào việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. ASEAN thực sự coi Nhật Bản là một đối tác quan trọng hàng đầu cả về mặt chính trị, an ninh và kinh tế của khu vực.

Thực tế cho thấy, quan hệ Nhật Bản - Đông Nam Á đã có những bước phát triển mạnh mẽ và sâu rộng trên cả bình diện quan hệ song phương với từng nước cũng như trong các cơ chế, tổ chức đa phương khu vực và các lĩnh vực quan trọng khác. Vai trò và ảnh hưởng của Nhật Bản được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Tuy nhiên, việc Nhật Bản ủng hộ Mỹ triển khai chiến lược “tái cân bằng” tại châu Á trên tất cả các phương diện, được phản ánh rõ qua Chiến lược an ninh quốc gia của Nhật Bản và Văn bản Chỉ đạo hợp tác quốc phòng Nhật Bản - Mỹ mới được sửa đổi, đem lại những hệ quả nhất định đối với khu vực. Bởi trên thực tế, chiến lược này nhằm bảo đảm lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ tại châu Á với việc “tăng cường và phát triển quan hệ đồng minh và đối tác hiện có”, đồng thời để đối phó với diễn biến mới, đặc biệt là sức mạnh và ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc ở khu vực.

Hơn nữa, chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ lại mâu thuẫn với chiến lược của Trung Quốc - quốc gia đang thúc đẩy mạnh mẽ tham vọng trở thành cường quốc hàng đầu tại châu Á. Mặc dù Văn bản Chỉ đạo hợp tác quốc phòng Nhật Bản - Mỹ không nêu rõ đích danh, nhưng rõ ràng Trung Quốc được coi là nhân tố gây bất ổn định ở Đông Á và là nguyên nhân chính dẫn đến việc điều chỉnh lại văn bản này. Do vậy, việc Nhật Bản “nhiệt tình” ủng hộ chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ tại châu Á cũng có thể gặp những phản ứng khác nhau từ các nước trong khu vực. Mặc dù chiến lược của Mỹ không tạo mối đe dọa trực tiếp nào đến các nước này, nhưng rõ ràng có mối lo ngại về khả năng xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực. Bởi thực tế Trung Quốc giờ đây đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất trong khu vực và sự phát triển vượt bậc của kinh tế Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng của Đông Nam Á. Nhiều nước Đông Nam Á đang tích cực tham gia các sáng kiến kết nối kinh tế và phát triển kết cấu hạ tầng do Trung Quốc đưa ra, như Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) hoặc Sáng kiến “Một vành đai, một con đường”.

Vì vậy, các nước Đông Nam Á không cùng chung quan điểm về chiến lược “xoay trục” của Mỹ mà cố gắng duy trì sự can dự tương đối cân bằng của tất cả các cường quốc trong cấu trúc đa phương của khu vực. Chẳng hạn như Phi-líp-pin, Thái Lan và Xin-ga-po, được coi là những nước bạn bè - đồng minh thân cận của Mỹ tại khu vực có khả năng sẽ ủng hộ chiến lược này, cho đây là một nhân tố cần thiết để bảo đảm hòa bình và ổn định ở khu vực. Ma-lai-xi-a - thành viên của TPP, cũng chia sẻ lợi ích trong việc thúc đẩy quan hệ với Mỹ và Nhật Bản, sẽ không phản đối chiến lược “tái cân bằng” này. Trong khi đó, In-đô-nê-xi-a - nước lớn và có ảnh hưởng nhất trong ASEAN, đồng thời là thành viên của G20, muốn tiếp tục phát huy vai trò và vị thế trong các cấu trúc khu vực, sẽ không hào hứng với ý tưởng quá phụ thuộc vào Mỹ, Trung Quốc hay Nhật Bản trong việc bảo đảm an ninh khu vực.

Hai là, khả năng Nhật Bản thực hiện “phòng vệ tập thể” ở Biển Đông. Trong vài năm gần đây, việc Trung Quốc tiến hành một loạt hoạt động đơn phương, như gia tăng xây dựng, bồi đắp các đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam nhằm thay đổi nguyên trạng và kiểm soát Biển Đông đang gây ra mối lo ngại lớn cho các nước khu vực, trong đó có Mỹ, Nhật Bản và các cường quốc khác. Cuối tháng 10-2015, Mỹ đã tiến hành “hoạt động tự do hàng hải” (FONOP) bằng việc điều tàu chiến đi vào vùng 12 hải lý của những hòn đảo nhân tạo do Trung Quốc bồi đắp. Đây được coi là sự phản đối rõ ràng đối với tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông.

Trong chính sách an ninh mới của Nhật Bản có một nội dung quan trọng là Lực lượng phòng vệ Nhật Bản có thể thực hiện quyền “phòng vệ tập thể”, triển khai quân đội để đối phó với cuộc tấn công nhằm vào một nước “bạn bè gần gũi” của Nhật Bản, dưới một số điều kiện nêu trên. Vì vậy, cần xác định rõ trong trường hợp nào Nhật Bản sẽ thực hiện quyền “phòng vệ tập thể” này, để thực sự thấy sự “đóng góp tích cực” của Nhật Bản đối với hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực như tuyên bố trong chính sách của mình. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với thế giới nói chung và Đông Nam Á nói riêng, đặc biệt khi tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông có những dấu hiệu căng thẳng và có thể tiếp tục leo thang trong thời gian tới.

Nhật Bản chưa có kế hoạch tiến hành hoặc tham gia FONOP với Mỹ trên Biển Đông. Theo Đô đốc Cát-xu-tô-si Ca-goa-nô (Katsutoshi Kawano), Tổng tư lệnh Lực lượng phòng vệ Nhật Bản, “tùy vào tình hình, Nhật Bản sẽ cân nhắc việc này”(3). Tuy nhiên, dư luận cho rằng, khó có khả năng Nhật Bản sẽ tham gia FONOP trong tương lai gần, mặc dù nhiều nước, nhất là Mỹ, thường khuyến khích và mong muốn Nhật Bản đóng vai trò tích cực hơn trong các hoạt động ở khu vực Đông Á. Nguyên nhân là do: Thứ nhất, Chính phủ Nhật Bản không có đủ sự ủng hộ của công chúng trong nước để điều quân tham gia FONOP. Cho dù Dự luật an ninh mới đã được thông qua, nhưng Chính phủ Nhật vẫn phải xin ý kiến Quốc hội về từng trường hợp được thực hiện “phòng vệ tập thể” và nhìn chung người dân Nhật Bản không cho rằng, Biển Đông lại có mối liên hệ sống còn đến an ninh quốc gia Nhật Bản(4). Thứ hai, Nhật Bản không phải là nước tuyên bố chủ quyền hay liên quan trực tiếp đến tranh chấp lãnh thổ, vì vậy Nhật Bản không muốn “đối đầu” trực tiếp với Trung Quốc trên Biển Đông. Thứ ba, Nhật Bản không có đủ khả năng để thường xuyên điều máy bay hay tuần tra đến Biển Đông(5), vì mối quan tâm chính của Nhật Bản là biển Hoa Đông. Theo học giả X. Ca-pi-la (Subhash Kapila) thuộc “Nhóm phân tích Nam Á”, việc Trung Quốc đẩy mạnh căng thẳng trên Biển Đông và “chơi trò bên miệng hố chiến tranh” chính là “phép thử” khó khăn cho cả Nhật Bản và Mỹ(6).

Như vậy, xét việc Nhật Bản khó tham gia FONOP trên Biển Đông, khả năng triển khai quân đến khu vực này trong trường hợp có xung đột vũ trang hay tấn công quân sự chống lại một nước “bạn bè thân thiết” của Nhật Bản là rất hạn chế. Tuy nhiên, điều này cũng có thể xảy ra tùy thuộc vào mức độ và bản chất của cuộc tấn công vũ trang và liệu nó có tạo ra mối đe dọa đến “sự sống còn” của Nhật Bản hay không. Theo Tạp chí Chiến lược Đông Á năm 2015 thuộc Viện Nghiên cứu Quốc phòng Nhật Bản, về nguyên tắc, Nhật Bản không được điều động quân đội ra nước ngoài tham chiến. Việc thực hiện quyền “phòng vệ tập thể” phải dựa trên các điều khoản của Hiến pháp Nhật Bản, hạn chế sử dụng vũ lực trong những “hoàn cảnh cần thiết tối thiểu” để tự vệ, chống lại cuộc tấn công từ bên ngoài(7).

Ba là, cạnh tranh Nhật Bản - Trung Quốc gia tăng ở khu vực Đông Nam Á. Rõ ràng, căng thẳng giữa hai người “khổng lồ” ở châu Á sẽ có những tác động nhất định đến các nước Đông Nam Á, khi cả Nhật Bản và Trung Quốc đang nỗ lực mở rộng ảnh hưởng kinh tế và chính trị tại khu vực này. Cùng với việc tăng cường quan hệ đồng minh với Mỹ, chiến lược an ninh mới của Nhật Bản cũng đặt ra những biện pháp cụ thể để thúc đẩy hợp tác với các nước đối tác quan trọng ở châu Á, như Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. Mặc dù mục tiêu là củng cố các mối quan hệ đối tác nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh, nhưng ẩn giấu sau đó là chiến lược “ngăn chặn” Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng tại châu Á, từ Đông Á tới Nam Á, bởi cơ sở quan trọng trong những chuyển đổi trong chính sách an ninh của Nhật Bản chính là sự “trỗi dậy” của Trung Quốc.

Ngay sau khi Quốc hội Nhật Bản thông qua dự luật an ninh mới, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố, việc tăng cường sức mạnh quân sự và thay đổi lớn về chính sách an ninh, quốc phòng của Nhật Bản không phù hợp với trào lưu của thời đại, yêu cầu Nhật Bản “nhớ lại bài học lịch sử, nghiêm túc nhìn nhận mối lo ngại an ninh của các nước láng giềng châu Á”. Tuy nhiên, đằng sau tuyên bố mạnh mẽ đó, có thể thấy Trung Quốc đang lo ngại về sự phát triển quân sự, sức mạnh và khả năng của quân đội Nhật Bản, đặc biệt là lực lượng hải quân nước này. Do đó, Trung Quốc giờ đây phải đối phó với một nước Nhật Bản với sức mạnh quân sự ngày càng tăng và sức mạnh hải quân kết hợp của cả Mỹ và Nhật Bản còn vượt xa nhiều sức mạnh của Trung Quốc(8). Chính vì thế, sự cạnh tranh giữa hai cường quốc châu Á láng giềng sẽ ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt khi không nước nào chịu để cho “đối thủ” vượt trội về cả sức mạnh chính trị, quân sự hay kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Hiện nay, các nước Đông Nam Á đang phải đối mặt với tình thế khó khăn cả về ngoại giao, kinh tế và quân sự trước sự tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Về ngoại giao, các nước Đông Nam Á khó có thể đưa ra lập trường về vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản trên đảo Điếu Ngư/Xen-ca-cư tại biển Hoa Đông. Về kinh tế, cùng với việc thừa nhận vai trò quan trọng của Nhật Bản trong tiến trình hợp tác kinh tế khu vực, các nước Đông Nam Á vẫn tiếp tục hợp tác với Trung Quốc vì họ vẫn cần các dự án đầu tư của Trung Quốc cũng như các khoản vay để phát triển kết cấu hạ tầng. Về quân sự, cho đến nay Nhật Bản đang hỗ trợ các nước Đông Nam Á phát triển năng lực của lực lượng cảnh sát biển thông qua việc cung cấp các tàu tuần tra (đã sử dụng) hay các thiết bị liên lạc. Do sức mạnh áp đảo của Trung Quốc trên Biển Đông hiện nay, sự giúp đỡ này không thể làm thay đổi tương quan lực lượng. Tuy nhiên, Dự luật an ninh mới cho phép Nhật Bản xuất khẩu vũ khí (theo 3 nguyên tắc(9)) sẽ là câu chuyện khác. Nếu Nhật Bản xuất khẩu trang thiết bị, vũ khí tiên tiến cho các nước Đông Nam Á, hiện trạng chính trị, kinh tế và quân sự giữa các nước trong khu vực sẽ bị phá vỡ(10). Điều này có thể dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực và gia tăng căng thẳng khi Trung Quốc tiếp tục biểu dương sức mạnh quân sự ở đây.

Nhìn chung, để đánh giá toàn diện và đầy đủ hơn về tác động của chính sách an ninh mới Nhật Bản đối với khu vực Đông Nam Á, cần phải có nhiều thời gian. Tuy nhiên, Dự luật an ninh mới của Nhật Bản chắc chắn sẽ dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cán cân lực lượng và gia tăng cạnh tranh giữa các cường quốc, đặc biệt là giữa Mỹ - Trung Quốc, Nhật Bản - Trung Quốc trong khu vực Đông Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng./.

------------------------------------------

(1) Dự luật an ninh cho phép Lực lượng phòng vệ Nhật Bản được “sử dụng vũ lực” hay “điều quân ra nước ngoài chiến đấu” để bảo vệ đồng minh và các nước “bạn bè thân thiết”

(2) Chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ được Chính quyền Tổng thống B. Ô-ba-ma đưa ra vào cuối năm 2011, bao gồm 6 nội dung chính: 1- can dự tích cực về mặt ngoại giao với các nước châu Á; 2- tăng cường quan hệ với các cường quốc mới nổi, gồm cả Trung Quốc, Ấn Độ và In-đô-nê-xi-a; 3- gia tăng khả năng răn đe quân sự và tìm kiếm các đối tác hợp tác an ninh mới tại châu Á; 4- lôi kéo các nước châu Á tham gia vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); 5- ủng hộ các diễn đàn đa phương khu vực; 6- thúc đẩy dân chủ, nhân quyền.

(3), (4) Tiezzi Shannon: “Tại sao Nhật Bản lại không can dự quá sâu vào Biển Đông”, trang tin Nhà Ngoại giao, ngày 29-10-2015

(5) Yoshida, Reiji: “Nhật Bản cân nhắc hành động trong tranh chấp Biển Đông”, Thời báo Nhật Bản, ngày 6-11-2015

(6) Kapila, Subhash: “Văn bản mới chỉ đạo hợp tác Quốc phòng Nhật Bản - Mỹ đóng góp vào an ninh châu Á”, Nhóm phân tích Nam Á, bài số 5923, Niu Đê-li, Ấn Độ, ngày 4-5-2015

(7) Tạp chí Chiến lược Đông Á, Viện Nghiên cứu quốc phòng (NIDS), Tô-ky-ô, Nhật Bản, năm 2015

(8) Kapila Subhash: tlđd

(9) Ba nguyên tắc xuất khẩu vũ khí của Nhật Bản là: 1- không được thực hiện nếu vi phạm các hiệp định và các điều ước quốc tế mà Nhật Bản tham gia, vi phạm nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc hoặc xuất khẩu cho nước tham chiến; 2- được xuất khẩu nếu đóng góp tích cực cho việc duy trì hòa bình và hợp tác quốc tế; 3- xuất khẩu chỉ được thực hiện nếu được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt

(10) Lee, John: “Vai trò chiến lược của Nhật Bản tại Đông Nam Á - Nguồn gốc của mối lo ngại”, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Xin-ga-po, ngày 17-6-2015