TCCS - Mong muốn của toàn Đảng, toàn dân là phải lựa chọn được những cán bộ, đảng viên có đức, có tài giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt các cấp để tiếp tục lãnh đạo công cuộc đưa quốc gia lên tầm cao mới, tiến cùng thời đại trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. “Cán bộ lãnh đạo ở mọi cấp, mọi ngành... chính là người đại diện cho Đảng, bảo đảm cho đường lối của Đảng được thực hiện”(1). Vì vậy, vấn đề rèn luyện để có phẩm chất và năng lực có tầm quan trọng hết sức đặc biệt đối với cán bộ lãnh đạo.

Bàn về năng lực của người lãnh đạo, phẩm chất là một yếu tố không thể thiếu của người làm công tác lãnh đạo. Phẩm chất là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng mối quan hệ giữa con người với con người. Phẩm chất thể hiện qua cách ứng xử của con người đối với người khác cũng như đối với mỗi sự việc trong cuộc sống. Đồng thời, phẩm chất cũng là một trong những biểu hiện của nhân cách, nhân cách thể hiện trình độ văn hóa và nguyên tắc sống của con người. Năng lực và phẩm chất của một cán bộ lãnh đạo thể hiện cụ thể ở bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác.

Bản lĩnh chính trị

Là sự kiên định, khả năng độc lập suy nghĩ, quyết định và hành động, là đòi hỏi cơ bản và trực tiếp đối với mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, với cán bộ lãnh đạo nói riêng; giúp mỗi người kiên định lập trường, quan điểm và bằng ý chí, năng lực của mình vượt qua khó khăn, thử thách, áp lực để quyết tâm thực hiện mục đích của mình, cơ quan, đơn vị, địa phương. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là một trong những yếu tố quan trọng hình thành bản lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng thể hiện ở những quyết định đúng đắn, kịp thời, phù hợp yêu cầu của thực tiễn, nhất là ở trong những thời khắc có ý nghĩa bước ngoặt.

Là phẩm chất cần phải có của mỗi cán bộ, đảng viên; là sự cụ thể hóa bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; là tinh thần, ý chí, quyết tâm phấn đấu, vượt mọi gian khổ và không dao động trước thử thách, áp lực để hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là tinh thần chủ động trong đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động của chúng, phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị là sự thể hiện “tính Đảng” của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm; là tinh thần và ý chí “phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân”(1), được thể hiện rõ ở việc, luôn “nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(2). Vì thế, rèn luyện bản lĩnh chính trị để mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; đồng thời, nỗ lực, sáng tạo và phát huy sức mạnh tiềm năng hoàn thành nhiệm vụ được giao phó là yêu cầu vừa thường xuyên, vừa bức thiết trong công tác xây dựng Đảng.

Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là toàn bộ hoạt động của các cấp uỷ, tổ chức đảng và của chính cán bộ, đảng viên trên tinh thần quán triệt sâu sắc và theo đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; xây dựng và xác định rõ các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên; được tiến hành đồng bộ: từ việc nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị đến nâng cao năng lực công tác, phương pháp làm việc, tác phong công tác; với sự tham gia, phối hợp nhiều lực lượng và đi liền đó là tạo điều kiện, môi trường thử thách để rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn liền với việc đề cao vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị của mỗi người.

Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, khi mà một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; trong đó, có những cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, với những biểu hiện về sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, chạy theo danh lợi, tiền tài, địa vị, tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm… yêu cầu phải tăng cường rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Phẩm chất đạo đức

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là quyết tấm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”(3). Đạo đức ấy được thể hiện ở các phẩm chất: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Những phẩm chất đó có mối quan hệ tác động qua lại biện chứng với nhau, thiếu một phẩm chất thì người cán bộ, đảng viên không thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng, nhân dân và cách mạng giao phó.

Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, “về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” đã đưa ra quy định về 5 chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, Đảng viên trong giai đoạn mới, gồm 1- Yêu nước, tôn trọng nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; 2- Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; 3- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; 4- Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; 5- Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời. Quy định số 144-QĐ/TW ra đời có ý nghĩa sâu sắc, kịp thời, đáp ứng đòi hỏi về lý luận và thực tiễn, góp phần quán triệt sâu rộng đến cán bộ, đảng viên tiếp tục thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.

Trong giai đoạn hiện nay, dưới tác động của nhiều yếu tố, như sự cám dỗ của lợi ích vật chất, mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tự rèn luyện kém, kiểm tra, giám sát của tổ chức chưa chặt chẽ làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Vì vậy, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời là yêu cầu cốt lõi để trở thành một cán bộ lãnh đạo gương mẫu của Đảng, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh rèn luyện bền bỉ mới thành. Người khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải ở trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(4). Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao càng phải tích cực, liên tục học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng trong giai đoạn mới là rất cần thiết, góp phần làm cơ sở ban hành quy định để cán bộ, đảng viên, các cấp, ngành thực hiện tu dưỡng, rèn luyện, phù hợp với điều kiện, yêu cầu sự nghiệp cách mạng, đáp ứng đòi hỏi về cả lý luận và thực tiễn, có ý nghĩa sâu sắc trên phương diện xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng,

Năng lực công tác

Năng lực công tác của cán bộ lãnh đạo chủ chốt là khả năng tư duy khoa học, có tầm nhìn xa, trông rộng, có phương pháp làm việc khoa học và năng lực tổng hợp, phân tích, dự báo tình hình để có quyết định hoặc đề xuất để tập thể lãnh đạo quyết định kịp thời, sáng suốt, đúng đắn nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Trong tình hình hiện nay, đòi hỏi cán bộ chủ chốt phải thực sự chủ động, nhạy cảm và có khả năng phát hiện những mâu thuẫn, thách thức, thời cơ, thuận lợi, vấn đề mới, khó và những hạn chế, bất cập trong thực tiễn; mạnh dạn đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả để phát huy, thúc đẩy hoặc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Năng lực công tác còn đòi hỏi cán bộ chủ chốt phải có kiến thức lý luận, nắm chắc đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nắm chắc và hiểu biết cơ bản tình hình thực tế để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Năng lực công tác còn được đánh giá ở cả một quá trình công tác liên tục đã qua với khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, kinh nghiệm thực tiễn, những thành tích, kết quả công tác nổi trội ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công, được cấp trên, đồng nghiệp và nhân dân thừa nhận. Cùng với việc rèn luyện đức tính cần cù, chịu khó, cán bộ chủ chốt còn phải thực sự năng động, có tư duy đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời phải thực sự là người tiên phong, gương mẫu, có khả năng truyền cảm hứng, quy tụ và phát huy được sức mạnh tổng hợp của tập thể cũng như năng lực sở trường của mỗi cá nhân trong công việc.

Có thể nói, bàn về năng lực, phẩm chất của cán bộ lãnh đạo là một bài toán còn nhiều vấn đề cần phải phân tích sâu hơn, bởi trong bối cảnh mới hiện nay, có quá nhiều những biến chuyển khó lường tác động chung tới toàn xã hội, cùng như sẽ tác động riêng tới mỗi cá nhân con người. Nhưng bản chất cốt lõi của một cán bộ lãnh đạo đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn hiện nay vẫn sẽ là phải coi trọng lợi ích tập thể, đặt lợi ích Nhân dân lên hàng đầu trong quá trình thực thi nhiệm vụ, luôn vì cái chung để chấp nhận hy sinh, tận tụy, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm./.

---------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11, tr.611
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 354
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 285
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 612