TCCS - Với sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và văn hóa, tỉnh Quảng Ninh hiện còn lưu giữ được kho tàng di sản văn hóa vô cùng đặc sắc, phong phú. Đây là nguồn lực quý giá cần được bảo tồn và phát huy trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.

1- Được ví như “Việt Nam thu nhỏ”, tỉnh Quảng Ninh hội tụ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc, vùng, miền, kết tinh trong hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể rất phong phú, đa dạng. Hiện Quảng Ninh có 637 di sản văn hóa vật thể (đình, chùa, đền, miếu, danh lam thắng cảnh…); 362 di sản văn hóa phi vật thể (lễ hội, phong tục, tập quán, trò chơi dân gian...), trong đó có 8 di tích quốc gia đặc biệt; 12 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (trong đó có then nghi lễ người Tày ở huyện Bình Liêu) được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Những năm qua, tỉnh và các địa phương đã huy động nhiều nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực xã hội hóa với trị giá hàng nghìn tỷ đồng trong việc đầu tư tu bổ, tôn tạo, để các di tích này trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút trung bình 6 triệu lượt khách du lịch hằng năm, tiêu biểu như Yên Tử, Cửa Ông, Cái Bầu, Ba Vàng... Các di sản lớn của tỉnh như Vịnh Hạ Long, Yên Tử, Bạch Đằng đều đã và đang được định hướng để trở thành những di sản thế giới liên vùng. Việc đẩy mạnh xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử là Di sản thế giới cũng sẽ tiếp tục góp phần đưa Quảng Ninh trở thành địa danh nổi tiếng toàn cầu, mở ra cơ hội lớn trong giao lưu, hội nhập quốc tế, xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc.

Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh đã có bước đột phá trong việc huy động các nguồn lực đầu tư thiết chế văn hóa, thể thao đồng bộ, hiện đại với các công trình nổi bật, như Cung Quy hoạch, Hội chợ và Triển lãm tỉnh; Quảng trường 30/10; Thư viện, Bảo tàng Quảng Ninh; Cung Văn hóa thanh thiếu nhi tỉnh Quảng Ninh; Trung tâm văn hóa, thể thao vùng Đông Bắc... Qua đó, tạo những điểm đến du lịch hấp dẫn của tỉnh và đưa Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm thu hút tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao cấp quốc gia, quốc tế.

Tỉnh Quảng Ninh cũng tích cực triển khai các dự án, đề án về nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh; xây dựng Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị một số làng dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cộng đồng giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030... gắn với việc đầu tư phục dựng các lễ hội truyền thống, lễ hội đồng bào các dân tộc, bảo tồn một số bộ môn nghệ thuật dân tộc để trở thành sản phẩm văn hóa, du lịch riêng có, độc đáo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Trên cơ sở đó, các đơn vị, địa phương tích cực thực hiện khảo cứu, sưu tầm, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vùng dân tộc thiểu số, như các tác phẩm văn học, văn nghệ, trò chơi dân gian, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống... Nhiều loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu, đặc biệt là văn hóa của các dân tộc thiểu số đã được phục dựng và phát huy giá trị, như tục hát “đúm” trên biển làng chài Cửa Vạn; hát nhà tơ, hát múa cửa đình; lễ hội cấp sắc, lễ hội xuống đồng… Quảng Ninh hiện có hơn 100 lễ hội, trong đó có 76 lễ hội đã được kiểm kê đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể. Các lễ hội văn hóa, lịch sử truyền thống được các địa phương huy động các nguồn lực tổ chức hiệu quả, trong đó có nhiều lễ hội mới được xây dựng thành sản phẩm văn hóa thường niên, như lễ hội Carnaval, lễ hội Hoa anh đào - mai vàng Yên Tử, lễ hội Hoa sở, lễ hội Trà hoa vàng... vừa bảo tồn được di sản văn hóa, vừa tạo thành sản phẩm văn hóa đặc sắc, độc đáo. Nhiều lễ hội đã được phục dựng thành công, bài bản, đúng bản sắc truyền thống của dân tộc, như Lễ hội Văn hóa, thể thao dân tộc Dao, Tày, Sán Chỉ, Sán Dìu...

Gắn với các lễ hội truyền thống là các trò chơi dân gian, các loại hình văn hóa, văn nghệ truyền thống, trang phục, tri thức dân gian về lâm - nông - ngư nghiệp, văn hóa ẩm thực truyền thống, được gìn giữ ở các làng xóm, thôn bản đồng bào các dân tộc tỉnh Quảng Ninh - những nơi được coi là “bảo tàng sống” để các du khách có các trải nghiệm thú vị về văn hóa dân gian của địa phương. Để gìn giữ, phát huy các môn thể thao dân tộc, nhiều môn, như đẩy gậy, đua thuyền chải, bắn cung, bắn nỏ, kéo co... đã được đưa vào thi đấu chính thức tại các giải thể thao thường niên của tỉnh. Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng Đề án “Bảo tồn, khôi phục và phát huy các môn thể thao dân tộc giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030”, tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức, xây dựng cơ chế, chính sách về bảo tồn, khôi phục và phát huy những môn thể thao dân tộc.

Đối với hệ thống di sản văn hóa vật thể ở vùng dân tộc thiểu số, tỉnh tiếp tục chú trọng bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng, danh lam thắng cảnh; bảo tồn bản, làng truyền thống thông qua việc xây dựng làng, bản văn hóa của dân tộc Tày, Sán Chỉ (Bình Liêu), dân tộc Dao (Hạ Long, Tiên Yên, Móng Cái)...; đồng thời tuyên truyền người dân nâng cao ý thức, trách nhiệm gìn giữ trang phục truyền thống, công cụ lao động sản xuất truyền thống; nhạc cụ, khí cụ... đang còn lưu giữ, sử dụng trong sinh hoạt thường ngày.

Đặc biệt, tỉnh Quảng Ninh còn thường xuyên duy trì tổ chức các hoạt động văn hóa giàu ý nghĩa và sức hấp dẫn, như Ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc Tày, Dao, Sán Chỉ ở Bình Liêu, Tiên Yên, Ba Chẽ, Ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc vùng Đông Bắc, Ngày hội văn hóa - thể thao tỉnh Quảng Ninh… với những sản phẩm văn hóa du lịch độc đáo, tiêu biểu là những trận đá bóng của các cô gái Sán Chỉ ở Bình Liêu, Hội thi Vua gà huyện Tiên Yên, Hội thi ẩm thực gà Tiên Yên, Liên hoan ẩm thực đường phố, Lễ hội nghệ thuật đường phố... Tất cả đã mang đến một không gian sinh hoạt văn hóa hấp dẫn, nhiều màu sắc, góp phần khẳng định dấu ấn của một vùng đất giàu bản sắc văn hóa.

Bên cạnh đó, với truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, trải qua bao năm tháng xây dựng và phát triển quê hương, các thế hệ người dân Quảng Ninh hiện còn lưu giữ được nhiều nghề và làng nghề mang đậm giá trị văn hóa các vùng, miền. Đây là một trong những lợi thế so sánh để tỉnh Quảng Ninh có thể xây dựng và phát triển mô hình du lịch văn hóa tại các làng nghề. Theo thống kê, tỉnh Quảng Ninh có khoảng 20 làng nghề với nhiều ngành, nghề khác nhau, như gốm sứ, thủy tinh, mây tre đan, điêu khắc than đá, tiểu thủ công đồ gỗ, thêu ren, dệt, chế biến nông, lâm, thủy sản, nghề đóng và sửa chữa tàu…; trong đó có những nghề và làng nghề truyền thống đã được công nhận, như nghề truyền thống làm bánh gio Phong Cốc, nghề làm bún Hiệp Hòa, nghề đóng tàu thuyền vỏ gỗ Đò Chanh (thị xã Quảng Yên), các làng nghề truyền thống, như làng nghề đan ngư cụ Hưng Học, làng nghề đóng tàu thuyền vỏ gỗ Cống Mương (thị xã Quảng Yên)… Với sự kết hợp tinh tế, tài hoa giữa kỹ thuật của các nghệ nhân và nét văn hóa độc đáo được tiếp nối qua nhiều thế hệ, sản phẩm của làng nghề tỉnh Quảng Ninh kết tinh nhiều giá trị, như giá trị thẩm mỹ, giá trị kinh tế, giá trị văn hóa, phản ánh sinh động phong tục, tập quán và khát vọng của người dân miền đất địa đầu Đông Bắc của Tổ quốc. Chính vì vậy, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh hoa của các làng nghề tỉnh Quảng Ninh chính là những “đại sứ văn hóa”, phản ánh văn hóa và con người Quảng Ninh với những nét riêng có, đặc sắc và có sức lan tỏa rộng rãi trong và ngoài nước. Đây là những điều kiện để xây dựng và quảng bá những sản phẩm OCOP hấp dẫn trên cơ sở khai thác lợi thế từ những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của các địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Hằng năm, tỉnh Quảng Ninh hỗ trợ nhiều cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ làng nghề, tư vấn thiết kế mẫu sản phẩm, trong đó có các mẫu sản phẩm phục vụ du lịch; có nhiều hoạt động giới thiệu, quảng bá các sản phẩm OCOP độc đáo của các làng nghề tiêu biểu; nhân rộng các mô hình du lịch văn hóa gắn kết với xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở một số làng nghề (như tổ chức thăm nhà các nghệ nhân, nghe kể những câu chuyện làm nghề, trải nghiệm quy trình sản xuất một sản phẩm làng nghề…). Tỉnh cũng tổ chức ngày càng hiệu quả hơn việc liên kết sản xuất - thiết kế - tiêu thụ để nâng cao giá trị thương hiệu của các sản phẩm làng nghề thông qua các hội chợ, triển lãm, lễ hội; qua đó giới thiệu với du khách trong và ngoài nước hiểu được hồn cốt, bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc tỉnh Quảng Ninh; đồng thời, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng phát triển.

2- Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì hiện nay, công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Không ít các cấp, ngành và người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác quy hoạch, quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa trong quá trình phát triển, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, một số địa phương của tỉnh chưa có sự điều tiết hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, còn tình trạng quá coi trọng tăng trưởng kinh tế, dẫn đến nhiều vấn đề bất cập nảy sinh. Nhiều di tích không được bảo tồn một cách hợp lý. Còn sự mất cân đối, chênh lệch trong quá trình phát huy giá trị của từng di tích, di sản văn hóa. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản vẫn chưa được các ngành, các cấp có liên quan phối hợp chặt chẽ và hiệu quả, thậm chí ở một số nơi còn buông lỏng, khiến việc xâm phạm, lấn chiếm di tích, di sản còn diễn ra. Nguồn kinh phí cho tu bổ di tích còn thấp. Nguồn nhân lực quản lý di tích các cấp còn mỏng, thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Do đó, để văn hóa, con người Quảng Ninh thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, là nguồn lực nội sinh, động lực quan trọng cho sự phát triển nhanh, bền vững của tỉnh, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:

Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của các cấp ủy, chính quyền và người dân Quảng Ninh về vị trí, vai trò của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, về quyền và nghĩa vụ đối với các di sản văn hóa. Phát huy vai trò của nhân dân trong việc bảo vệ di sản văn hóa. Xây dựng cơ chế hợp tác, chung tay giữa cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó cần giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa trách nhiệm và lợi ích của cộng đồng cư dân trong toàn bộ các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả quản lý di sản văn hóa, gắn kết hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Thực hiện phân cấp quản lý di sản văn hóa để nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Chú trọng hơn nữa yếu tố bảo tồn di sản văn hóa trong công tác quy hoạch của địa phương, tiếp cận vấn đề một cách tổng thể, liên ngành để đề xuất các giải pháp thích hợp, tạo dựng cảnh quan phù hợp cho khu vực di sản văn hóa, góp phần làm tăng giá trị của di sản văn hóa và tạo điểm nhấn, sức hấp dẫn cho các địa phương có di sản trên địa bàn tỉnh.

Thứ ba, tăng cường đầu tư và đa dạng hóa các nguồn vốn (nguồn vốn của Nhà nước, nguồn vốn xã hội hóa) và nguồn nhân lực cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Triển khai thực hiện các đề án, như Đề án về phát triển du lịch cộng đồng bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Đề án xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu - nghèo và chênh lệch vùng, miền trong tỉnh, giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến 2030.

Thứ tư, tập trung điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Bảo tồn và phát triển các lễ hội truyền thống, lễ hội dân gian, các làng nghề truyền thống; điều tra, sưu tầm toàn diện các giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu của các dân tộc trên địa bàn tỉnh, lựa chọn những giá trị văn hóa, lễ hội tiêu biểu đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Thứ năm, tiếp tục nâng cao hiệu quả gắn kết giữa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa và chiến lược phát triển các công nghiệp văn hóa trên cơ sở khai thác thế mạnh, tiềm năng văn hóa về cảnh quan, giá trị truyền thống, ẩm thực vùng, miền, nhất là trong hoạt động du lịch, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển du lịch di sản, có chiến lược, kế hoạch dài hạn để tuyên truyền, quảng bá du lịch gắn với bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với quy mô lớn hơn, chất lượng, hiệu quả cao hơn. Chú trọng đẩy mạnh, tăng cường công tác tuyên truyền. Nghiên cứu mô hình quản lý di sản văn hóa đang hoạt động, đánh giá đúng các mặt tích cực cũng như hạn chế để đưa ra một số mô hình tiêu biểu và phù hợp với từng địa bàn cụ thể của tỉnh, tạo cơ sở phát triển du lịch văn hóa trở thành một trong những ngành công nghiệp văn hóa trọng điểm của tỉnh Quảng Ninh.

Thứ sáu, tiếp tục xác định Chương trình OCOP là một chương trình trọng tâm về phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với văn hóa, mang tính dài hạn và được ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội nông thôn của tỉnh Quảng Ninh, gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững trên cơ sở phát huy lợi thế, tiềm năng, văn hóa của từng địa phương. Thực hiện sản xuất, quảng bá các loại hình văn hóa, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm mang thông điệp văn hóa của Quảng Ninh - cũng chính là việc xây dựng và phát triển, nâng tầm thương hiệu các sản phẩm OCOP đa giá trị, phục vụ phát triển du lịch văn hóa, coi đó là những “đại sứ văn hóa” của miền đất địa đầu Đông Bắc của Tổ quốc. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành của tỉnh và các địa phương, lồng ghép giới thiệu, bán sản phẩm OCOP, sản phẩm nông sản đặc trưng gắn với không gian trưng bày, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch; đẩy mạnh kết nối chương trình, tuyến du lịch văn hóa, tăng cường trải nghiệm văn hóa cho du khách ngay tại các cơ sở sản xuất sản phẩm OCOP. Tiếp tục thúc đẩy và nâng cao chất lượng các hoạt động kết nối xuất khẩu, giao thương, xúc tiến thương mại, quảng bá văn hóa và các sản phẩm OCOP tại các địa phương vùng biên giới của tỉnh Quảng Ninh nhằm duy trì, mở rộng xuất khẩu trên thị trường thế giới.

Thứ bảy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh. Xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho nhân lực hiện đang đảm nhiệm công việc này tại các cấp, nhằm nâng cao trình độ về chuyên môn, cập nhật tiếp thu kiến thức mới áp dụng vào việc quản lý di sản văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia, nhà nghiên cứu, các thợ lành nghề tham gia các hoạt động bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa. Định kỳ tổ chức tập huấn, cập nhật kiến thức pháp luật về di sản văn hóa cho cán bộ cơ sở, các ban quản lý di tích cũng như những người trực tiếp tham gia trông coi, bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa.

Thứ tám, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của tỉnh. Thông qua sự gắn kết giữa công nghệ số với phát triển du lịch thông minh để đưa các nội dung quảng bá hình ảnh, phát huy giá trị di sản lên các nền tảng công nghệ, qua đó quảng bá và phát huy giá trị di sản văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đưa di sản đến gần hơn với công chúng. Xây dựng ngân hàng dữ liệu khoa học về các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; qua đó tích hợp mọi nguồn thông tin có liên quan tới di sản văn hóa và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của tỉnh Quảng Ninh, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, thu hẹp  khoảng cách và sự chênh lệch giữa các vùng, miền của tỉnh, góp phần xây dựng văn hóa, con người Quảng Ninh thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực và nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững./.