Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh vùng Tây Nam Bộ
TCCS - Vùng Tây Nam Bộ có vai trò, vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực hiện chủ trương của Đảng, đảng bộ các tỉnh, thành phố trong vùng đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, nhất là cán bộ, công chức cấp huyện; triển khai nhiều giải pháp đột phá trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ chủ chốt…, nên chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thời gian tới, đảng bộ các tỉnh, thành phố trong vùng tiếp tục phát huy thành tựu, từng bước khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhiều kết quả đáng ghi nhận
Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18-6-1997, của Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Quán triệt quan điểm đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về công tác cán bộ, như: Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị, “Về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, chủ chốt, viên chức”; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”… Trên cơ sở đó, các tỉnh, thành phố vùng Tây Nam Bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng trong công tác cán bộ để triển khai vào thực tiễn, ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng.
Trong hai nhiệm kỳ vừa qua, cấp ủy các cấp trong vùng đã xây dựng quy trình quy hoạch mới, hằng năm tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ đúng quy định, bảo đảm tính “mở” và “động”. Trong thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức cấp huyện, các tỉnh, thành phố phát huy dân chủ trong việc đánh giá, lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch, bảo đảm đồng bộ từ dưới lên, tạo được nguồn cán bộ kế cận khá dồi dào, mỗi chức danh quy hoạch từ 2 đến 3 người, một người quy hoạch từ 2 đến 3 chức danh; thực hiện tốt việc quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Hiện nay, có tổng số 402 cán bộ, công chức cấp huyện, trong đó tỷ lệ cán bộ, công chức có tuổi đời dưới 40 tuy chiếm tỷ lệ còn thấp nhưng có xu hướng tăng, nhiệm kỳ 2010 - 2015 chiếm tỷ lệ 8,2%, đến nhiệm kỳ 2015 - 2020 tăng lên 13,4%...(1) Qua đào tạo, thử thách trong thực tiễn công tác, nhiều người được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm; đảng ủy cấp trên và Trung ương đánh giá cao, đưa vào quy hoạch giữ các chức vụ lãnh đạo cao hơn ở cấp tỉnh trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Đặc biệt, đảng bộ các tỉnh, thành phố trong vùng quan tâm, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trẻ có tư duy năng động, phương pháp quản lý hiện đại, tác phong làm việc chuyên nghiệp; cân đối tỷ lệ cán bộ nữ, dân tộc thiểu số trong quy hoạch, bổ nhiệm.
Quá trình thẩm định, phê duyệt quy hoạch cán bộ, công chức cấp huyện ở các tỉnh, thành phố vùng Tây Nam Bộ chặt chẽ. Trên cơ sở đề nghị của các địa phương, đơn vị, cơ quan tham mưu chủ trì, phối hợp với ủy ban kiểm tra cấp ủy và các cơ quan có liên quan thẩm định hồ sơ trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch theo phân cấp quản lý; công khai quy hoạch cũng được các cấp ủy chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, tạo sự thống nhất cao trong xây dựng và thực hiện quy hoạch. Những việc làm trên đã góp phần khắc phục được tình trạng bị động trong công tác cán bộ; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ, công chức, phục vụ tích cực công tác nhân sự đại hội đảng bộ và hội đồng nhân dân cấp huyện. Giai đoạn 2010 - 2020, các cấp ủy quy hoạch được 1.565 cán bộ vào các chức danh cán bộ, công chức cấp huyện.
Trong công tác đào tạo cán bộ, các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng tập trung chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả, đa dạng hóa các loại hình đào tạo theo từng chức danh cán bộ chủ chốt cấp huyện, nhất là quan tâm đào tạo cán bộ chủ chốt các cấp trong diện quy hoạch, từng bước đáp ứng được yêu cầu trước khi đề bạt, bổ nhiệm và chuẩn hóa cán bộ. Trong đó, chú trọng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lịch sử, văn hoá, kiến thức chuyên môn về xây dựng Đảng, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, khoa học - công nghệ, ngoại ngữ, tin học... và đào tạo, bồi dưỡng gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ của cán bộ chủ chốt cấp huyện, giúp họ đủ bản lĩnh, tri thức, kinh nghiệm, giải quyết tốt công việc, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hằng năm, ban tổ chức các tỉnh ủy, huyện ủy đã chủ động xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo kế hoạch; ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy quan tâm chỉ đạo, củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức, đầu tư xây dựng hệ thống trường đào tạo, trung tâm bồi dưỡng chính trị. Đến nay, tất cả cán bộ chủ chốt cấp huyện đã được chuẩn hóa, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Đảng bộ các tỉnh, thành phố trong vùng xác định luân chuyển cán bộ là giải pháp đột phá, “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhằm tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ, giúp cán bộ có thêm kiến thức thực tiễn và phát triển nhanh, toàn diện hơn. Ngay từ đầu của hai nhiệm kỳ vừa qua, ban thường vụ các thành ủy, tỉnh ủy chỉ đạo rà soát, đánh giá trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, uy tín của cán bộ quy hoạch các chức vụ cán bộ chủ chốt cấp huyện nói riêng và đội ngũ cán bộ nói chung; trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch bố trí, sử dụng và tổ chức thực hiện công tác luân chuyển cán bộ theo đúng nguyên tắc, quy trình, quy định; chỉ đạo các đảng bộ trực thuộc, các sở, ban, ngành cấp tỉnh xây dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng đã thực hiện luân chuyển 189 cán bộ; các ngành cấp tỉnh luân chuyển về huyện và luân chuyển ngang giữa các huyện 28 cán bộ; thực hiện việc bố trí các chức danh theo chủ trương không phải là người địa phương 39 cán bộ.
Nhìn chung, cán bộ được luân chuyển đều nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Các cơ quan, đơn vị có cán bộ luân chuyển đến đã chấp hành nghiêm sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ luân chuyển hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển được thực hiện đúng quy định. Qua thực hiện, hầu hết cán bộ luân chuyển hoàn thành nhiệm vụ và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn, có phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, toàn diện hơn; có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, được cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương tín nhiệm, được bổ sung vào cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đề bạt, bổ nhiệm vào chức vụ lãnh đạo địa phương và các sở, ban, ngành cấp tỉnh. Sau luân chuyển, có 29 cán bộ được bổ nhiệm chức vụ cao hơn, còn lại giữ chức vụ tương đương.
Một số hạn chế cần khắc phục
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy về công tác luân chuyển cán bộ chưa đầy đủ, sâu sắc, thực hiện luân chuyển chưa bám sát vào công tác quy hoạch cán bộ, chưa chú ý luân chuyển cán bộ trẻ có triển vọng. Một số nơi thực hiện luân chuyển cán bộ còn ít, còn tư tưởng khép kín trong từng địa phương.
Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện những nội dung nêu trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện của một số tỉnh, thành phố trong vùng còn thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, nghiêm túc; chậm thể chế và cụ thể hóa; ít kiểm tra, đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm.
Thứ ba, sự thống nhất và đồng bộ trong đào tạo giữa lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng chưa được chú trọng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng; cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích học tập còn nhiều điểm chưa phù hợp nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung. Một số cấp ủy cấp huyện chưa tập trung vào đào tạo chuyên môn gắn với ngành, nghề thế mạnh của địa phương.
Thứ tư, phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực cán bộ, công chức cấp huyện, dẫn tới vẫn còn tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ; công tác phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm có lúc, có nơi còn thiếu; công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
Thứ năm, một số nơi chưa xây dựng tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, đối tượng cán bộ nên quá trình đánh giá cán bộ còn lúng túng, chất lượng đánh giá chưa thật sự đúng thực chất. Công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan thực hiện đánh giá cán bộ thuộc khối đảng và chính quyền có mặt chưa chặt chẽ, thống nhất.
Thứ sáu, chưa phát huy đúng mức vai trò giám sát của các cơ quan dân cử; giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; thiếu cơ chế phù hợp để nhân dân tham gia đánh giá cán bộ; chưa phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí.
Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện trong tình hình mới
Xây dựng Đảng về cán bộ lần đầu chính thức được đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng với tư cách là một nội dung riêng, trong đó nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế, quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”(2). Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, trong thời gian tới, để tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện có chất lượng, ngang tầm nhiệm vụ, đảng bộ các tỉnh, thành phố trong vùng tập trung thực hiện bộ một số giải pháp:
Một là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các nội dung của công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện với quan điểm “đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế”. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực, tham nhũng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện.
Hai là, trong bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện cần bám sát các nguyên tắc “5 bảo đảm” (“khách quan, công bằng”, “tập trung dân chủ”, “tương xứng với yêu cầu công việc”, “cơ cấu hợp lý giữa các nhóm cán bộ, công chức” và “lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ phải dựa trên quy hoạch cán bộ”) và “5 đúng” (“đúng tiêu chuẩn”, “đúng quy trình, quy chế và sử dụng cán bộ”, “đúng lúc”, “đúng tầm”, “đúng chuyên môn”). Thực hiện nghiêm túc quy trình, quy chế bầu cử cán bộ chủ chốt cấp huyện. Cần thực hiện công khai thông tin về các ứng cử viên cán bộ, công chức cấp huyện trước khi bầu cử, bổ nhiệm. Hơn nữa, cần công khai, minh bạch thông tin của cán bộ, công chức cấp huyện để nhân dân thực hiện quyền giám sát, xây dựng Đảng.
Ba là, thực hiện tốt cơ chế kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện. Các huyện ủy cần có kế hoạch và quy định cụ thể thực hiện nghiêm túc Quy định số 205-QĐ/TU, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực của cán bộ và người làm công tác cán bộ. Thực hiện tốt cơ chế kiểm soát quyền lực trên nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thông qua tự phê bình và phê bình trong Đảng, việc ban hành và thực thi các quy định của Đảng, quy định của pháp luật, giám sát của nhân dân mà đại diện là các tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, qua hội đồng nhân dân địa phương…
Bốn là, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện. Thực hiện nghiêm việc tiếp dân định kỳ của bí thư cấp ủy, chủ tịch hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cấp huyện. Chú trọng phân công đảng viên trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện phụ trách các địa bàn dân cư quan trọng với các hình thức phù hợp để gắn bó mật thiết với nhân dân; truyền đạt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; nắm chắc tình hình cơ sở; đồng thời, qua đó để nhân dân thực hiện việc giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, công chức cấp huyện về đạo đức, lối sống… Mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện một cách phù hợp.
-------------------
(1) Ban Tổ chức Trung ương: “Thống kê số liệu cán bộ chủ chốt cấp ủy huyện các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nhiệm kỳ 2015 – 2020”, 2020
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 187-188
Phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng  (24/02/2022)
Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Từ thực tiễn của Đảng bộ tỉnh Nghệ An  (18/02/2022)
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế  (01/01/2022)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển