Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế
TCCS - Đề ra nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ “có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế” là một trong những điểm mới nổi bật của Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII. Để thực hiện nhiệm vụ trên, cần phải có những giải pháp đồng bộ, đột phá để đội ngũ cán bộ này có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đáp ứng tốt các yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Thực tiễn đó đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn về tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, trong đó yêu cầu “đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế”(1). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội đề ra nhiệm vụ “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế... Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(2); “Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng... Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình; tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh và các cơ quan đối ngoại, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”(3).
Những yếu tố tác động đến yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế hiện nay
Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kinh tế thị trường đã, đang và sẽ là xu thế khách quan trong việc giải phóng các tiềm năng xã hội, giải phóng năng lực sáng tạo của cá nhân, phát triển các năng lực xã hội. Kinh tế thị trường kết hợp với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo điều kiện và cơ hội cho phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ sự phát triển của kinh tế thị trường và sự thúc đẩy mạnh mẽ của khoa học, công nghệ mà đời sống xã hội có được luồng sinh khí dồi dào, có khả năng linh hoạt, thích ứng cao. Trước sự thay đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất xã hội, với tư cách là sự phản ánh tính chất và trình độ của nền kinh tế, mọi thiết chế của kiến trúc thượng tầng xã hội ở nước ta đang đứng trước yêu cầu cấp thiết là phải đổi mới mạnh mẽ để thích ứng với sự phát triển mới. Trong đó có những yêu cầu mới về năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ để nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng nhanh trước một thể chế kinh tế năng động và sáng tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay là sự khởi động, cũng là nguyên nhân nội tại dẫn đến quá trình đổi mới tư duy của đội ngũ cán bộ, nhằm khắc phục những trì trệ, bảo thủ và giáo điều trước đây. Sẽ là sai lầm nếu đồng nhất yêu cầu về trình độ, phẩm chất, năng lực của cán bộ trong giai đoạn trước đây với yêu cầu về trình độ, phẩm chất, năng lực của cán bộ trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và sự bùng nổ của công nghệ hiện đại ngày nay. Không ít những chuẩn mực trước đây không còn phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế cũng như với tính chất của nền kinh tế và trình độ khoa học, công nghệ hiện nay.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm chuyển động mạnh mẽ hệ giá trị tinh thần xã hội. Mặt trái của nó là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những tiêu cực xã hội. Quan liêu, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên diễn ra khá phổ biến, trở thành “trọng bệnh” và “quốc nạn”, đe dọa trực tiếp tới sự lành mạnh xã hội, đạo đức, sự ổn định của những guồng máy tổ chức; là mối đe dọa đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Chính vì lẽ đó, bên cạnh yêu cầu về năng lực, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay chính là việc giữ gìn đạo đức cách mạng, phẩm chất, lối sống và động cơ trong sáng của người cộng sản chân chính.
Thứ hai, sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Những thành tựu to lớn của khoa học, công nghệ, nhất là từ khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bùng nổ cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng diễn ra sâu sắc ở nước ta đã tạo tiền đề cho mỗi người cán bộ định hình rõ hơn và phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình. Đặc biệt, trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, khi hệ thống dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành khái niệm phổ biến của mọi lĩnh vực xã hội thì lượng thông tin nhiều chiều và tính đa dạng của các phương tiện chuyển tải thông tin cùng với sự hỗ trợ của các hệ thống, thiết bị siêu thông minh đã tác động mạnh mẽ đến quá trình tiếp nhận tri thức, thay đổi nhận thức và hành động của xã hội, nhất là đối với phương thức quản lý, mô hình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa - xã hội; từ đó, dẫn đến yêu cầu cao hơn về kiến thức, trí tuệ đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đất nước - những người trực tiếp vận hành các cơ quan, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, có tính chất quyết định năng lực lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ mới.
Trong điều kiện mới của nền kinh tế với những tác động mạnh mẽ của khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ các cấp là phải có kiến thức toàn diện bên cạnh những hiểu biết chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ; khiến cho cách hiểu về tiêu chuẩn, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý trở nên rõ ràng, cụ thể hơn, bảo đảm phù hợp với thực tế. Đây là một nội dung mới mà quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ luôn phải tính đến và có thái độ ứng xử một cách nghiêm túc, hợp với lô-gíc nội tại của bối cảnh mới.
Thứ ba, mức độ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Xu hướng hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ và kinh tế thị trường, một mặt, góp phần xác lập tính năng động của con người về mặt tư duy, tư tưởng cho đổi mới và phát triển; mặt khác, cũng là một thử thách rất gay gắt do quá trình đan xen phức tạp giữa cái tích cực, lành mạnh, hợp lý với cái tiêu cực, không lành mạnh, thậm chí xuất hiện cả những biểu hiện trái với đạo lý và pháp lý, cả sự đan xen giữa tính tự phát với tính tự giác, giữa cái mới, tiến bộ với cái lạc hậu, thoái bộ. Đây vừa là nguyên nhân nội tại, vừa là động lực quan trọng để tạo chuyển biến mạnh mẽ, đột phá trong công tác cán bộ thời gian tới.
Hiện nay, mức độ toàn cầu hóa ở nước ta ngày càng toàn diện, sâu rộng; hơn nữa, quan hệ đối ngoại của nước ta trên các kênh đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được chú trọng và đẩy mạnh. Điều này đã tạo ra môi trường mang tính quốc tế ngày càng sâu sắc, như Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu... Hội nhập quốc tế tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao”(4). Tình hình đó đặt ra những yêu cầu rất mới, cao hơn đối với đội ngũ cán bộ nói chung và đặc biệt là đội ngũ cán bộ trực tiếp làm việc trong môi trường quốc tế nói riêng.
Những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế
Để làm việc trong môi trường quốc tế, đội ngũ cán bộ cần đáp ứng nhiều yêu cầu, không chỉ về kiến thức, năng lực và trình độ ứng xử với cộng đồng quốc tế, để bảo vệ và thực hiện hiệu quả lợi ích quốc gia - dân tộc, mà còn phải có khả năng thực hiện tốt hợp tác quốc tế, quảng bá hiệu quả hình ảnh tốt đẹp của đất nước và con người Việt Nam.
Trước tiên, cần có lòng nồng nàn yêu nước, thông hiểu bản sắc của quốc gia - dân tộc, có khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự lực tự cường; đồng thời, phải nắm vững các chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Mục đích cơ bản của hoạt động hợp tác quốc tế là nhằm thực hiện và bảo vệ các lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy hữu nghị giữa các dân tộc, góp phần xây dựng thế giới văn minh, tốt đẹp. Do vậy, người cán bộ làm việc trong môi trường hợp tác quốc tế song phương hay đa phương đều phải có lập trường chính trị vững vàng, yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống phức tạp nào, phải luôn đặt lợi ích của đất nước lên hàng đầu, đặt chủ quyền, an ninh quốc gia làm mục tiêu tối thượng, kiên quyết bảo vệ lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, không được phép vì mục đích, lý do cá nhân hoặc lợi ích của một nhóm nhỏ mà gây phương hại tới lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia. Môi trường giao lưu đối ngoại đòi hỏi người cán bộ phải có tinh thần độc lập, thận trọng, tự kiềm chế, tự giám sát, tránh manh động, đề phòng mọi vi phạm, trường hợp không mong muốn có thể xảy ra.
Đội ngũ cán bộ cần hiểu đúng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước hết, phải nắm rõ các vấn đề và chủ trương, chính sách đối nội, đây là cơ sở để đối ngoại, giao lưu quốc tế và là điều kiện tiên quyết để giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Đồng thời, phải nắm vững các chủ trương, chính sách, chiến lược đối ngoại, trong đó đặc biệt chú trọng đến quan điểm chính yếu và xuyên suốt của Đảng về quan hệ đối ngoại đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới và gần đây nhất, tiếp tục được ghi nhận trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi... Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(5). Đây là nền tảng và chuẩn mực mà mỗi cán bộ phải tuân theo trong các hoạt động đối ngoại cụ thể của mình, nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc... bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế”(6), như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra.
Hai là, phải có tầm nhìn quốc tế sâu rộng và nắm bắt tốt các xu hướng, đặc điểm phát triển của tình hình quốc tế.
Sự phân tích đúng đắn và dự báo, nhận định, đánh giá chuẩn xác về tình hình quốc tế là cơ sở để chúng ta xây dựng các chính sách đối nội và đối ngoại một cách khoa học. Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo của thời đại, nhưng đã xuất hiện nhiều nét mới; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, trật tự thế giới đang biến đổi nhanh chóng; nhịp độ kinh tế toàn cầu đang tăng tốc và mối quan hệ kinh tế giữa nước ta với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới ngày càng chặt chẽ, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt; tiến bộ công nghệ thay đổi theo từng ngày, tạo động lực mới và mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội loài người. Chúng ta đang đứng trước những cơ hội chiến lược có thể tạo ra sự khác biệt lớn, nhưng cũng đang đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế khốc liệt chưa từng có. Vì vậy, đội ngũ cán bộ các cấp cần định hình tầm nhìn toàn cầu, quan sát thế giới một cách toàn diện, nâng cao khả năng phán đoán tình hình quốc tế và có tư duy chiến lược sâu rộng; tăng cường năng lực quan sát, đánh giá xu thế phát triển chung của thế giới, nắm bắt các cơ hội có lợi cho sự phát triển của đất nước, học hỏi và chắt lọc kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài, mở rộng nguồn lực và thị trường quốc tế. Khi đội ngũ cán bộ nắm bắt được các xu hướng và đặc điểm phát triển của tình hình quốc tế thì sẽ tạo được thế chủ động trong hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế.
Ba là, phải có kiến thức cơ bản về các vấn đề quốc tế, thấu hiểu những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế, chính trị và văn hóa của các nước đối tác.
Cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế nhất thiết phải có kiến thức cơ bản về các vấn đề quốc tế và nhất là phải có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực mà mình hoạt động, để có đủ nền tảng kiến thức khi tham gia vào các lĩnh vực hợp tác với các nước đối tác. Đồng thời, mỗi cán bộ cần thấu hiểu, nắm vững những đặc điểm của nền kinh tế, chính trị và văn hóa của các nước đối tác để xây dựng được chiến lược và biện pháp hợp tác phù hợp. Nếu không có kiến thức cơ bản về các vấn đề quốc tế, nhất là không hiểu rõ các thông lệ quốc tế và các quy định của thiết chế quốc tế, cũng như không nắm vững những đặc điểm của nền kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước đối tác, đặc biệt là phong tục, tập quán của họ, thì sẽ dễ rơi vào thế bị động, gây tổn hại lớn đến lợi ích và uy tín của quốc gia - dân tộc Việt Nam.
Sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế của nước ta ngày càng phải nâng cao kiến thức trong lĩnh vực này. Ngoài những kiến thức cơ bản như đã nói ở trên, còn phải có những kiến thức chung như: lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, chính trị (bao gồm cả lập trường và thái độ chính trị, thể chế chính trị), ngoại giao, quân sự, khoa học và công nghệ, giáo dục... của các nước đối tác; kiến thức về khuynh hướng chính trị, nhiệm vụ, chức năng của các tổ chức quốc tế và một số tổ chức phi chính phủ trên thế giới; về các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ với đối tác nước ngoài và các bối cảnh có liên quan... Càng có nhiều kiến thức thì khả năng xử lý công việc đối ngoại càng tốt và tính chủ động trong công việc sẽ càng được nâng cao.
Bốn là, cần có năng lực và trình độ đối ngoại, giỏi xử lý các vấn đề đối ngoại phức tạp, quảng bá hiệu quả hình ảnh tốt đẹp của đất nước.
Kiến thức về các vấn đề quốc tế là nền tảng của hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế; năng lực đối ngoại là khả năng và mức độ áp dụng toàn diện kiến thức này vào triển khai hoạt động thực tiễn. Cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế cần có sự nhìn nhận sâu sắc về lĩnh vực hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế, giỏi phát hiện các xu hướng, trào lưu, cơ hội, nguồn lực, hiểu rõ lập trường, thái độ và tâm lý của đối tác; có những nhận định tỉnh táo, nhanh chóng nắm bắt thời cơ, phân tích thấu đáo thuận lợi, khó khăn, để đưa ra được quyết định kịp thời, chuẩn xác; có kỹ năng giao tiếp sâu rộng, giỏi ứng xử với các kiểu cá tính, phong cách, thích ứng nhanh với những điều kiện, diễn biến phức tạp; bày tỏ quan điểm của mình bằng ngôn ngữ phù hợp, đồng thời tìm ra điểm chung về lợi ích của các bên và tạo sự hỗ trợ lẫn nhau theo cách thức thích hợp.
Ngoài ra, cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế cần rèn luyện đạo đức, trau dồi thói quen văn minh, hiểu biết về lễ nghi, phong tục của cộng đồng quốc tế, cư xử hòa nhã, thể hiện tính cách, phong thái lịch sự, nhã nhặn. Nếu mỗi cán bộ có khả năng và phẩm chất như vậy, thì không những có thể bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia - dân tộc, mà còn xây dựng được hình ảnh tốt đẹp của đất nước Việt Nam với truyền thống văn hóa, văn hiến lâu đời, yêu chuộng hòa bình với bạn bè quốc tế.
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế
Thứ nhất, từng bước đưa việc bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế trở thành một nội dung quan trọng của chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ các cấp.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, nội dung đào tạo đội ngũ cán bộ không ngừng được bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu đặt ra trong thực tiễn phát triển đất nước. Trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước đã đưa ra yêu cầu cán bộ “có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế”. Có nhiều cuộc hội thảo quốc tế do các bộ, ban, ngành ở Trung ương và các địa phương tổ chức đã đề cập đến vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế. Để góp phần giải quyết tốt vấn đề này, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị, trường cán bộ, trường hành chính các cấp từng bước tăng cường học tập, nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm, thực tiễn quốc tế. Chương trình 165 (nay là Cục Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ) thuộc Ban Tổ chức Trung ương đã cử hàng nghìn cán bộ của các bộ, ban, ngành và các địa phương đi đào tạo ở nước ngoài. Một số tỉnh, thành phố sử dụng kinh phí của địa phương để tuyển chọn cán bộ đi đào tạo ở các cơ sở đào tạo nước ngoài. Nhiều cơ sở đào tạo trong nước liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài để đào tạo đại học, sau đại học... Tất cả những điều này đã tạo điều kiện và thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế của nước ta.
Trong thời gian tới, công tác đào tạo cán bộ cần chú trọng đến nội dung nâng cao chất lượng (bao gồm cả năng lực và phẩm chất) đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế; coi đây là một nội dung quan trọng, cần được thực hiện theo một kế hoạch dài hạn, bài bản, có tính tổng thể. Cán bộ các đơn vị, địa phương có liên quan được đào tạo theo nhu cầu của công việc và được tập trung vào các khóa đào tạo chuyên đề nhất định. Họ không chỉ được học tập để mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ kiến thức về ngoại giao, quan hệ quốc tế, mà còn phải được đào tạo về kỹ năng và nghiệp vụ của lĩnh vực công tác này. Trong quá trình đào tạo, phải tuân thủ nguyên tắc gắn lý luận với thực tiễn, xuất phát từ thực tế của Việt Nam cũng như từ thực tiễn hội nhập quốc tế của đất nước. Các cơ sở đào tạo có liên quan cần kịp thời biên soạn tài liệu giảng dạy phù hợp để bồi dưỡng cho nhà giáo tham gia giảng dạy về lĩnh vực này.
Thứ hai, tiếp tục tạo điều kiện để cán bộ các cấp được học tập, trải nghiệm trong môi trường quốc tế nhằm nâng cao khả năng thích ứng với yêu cầu phát triển của thực tiễn.
Thực tiễn là một trường học lớn. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế, trong đội ngũ cán bộ của nước ta ngày càng có nhiều người đi đến nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới để làm việc, trao đổi, học tập trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ, quốc phòng, an ninh... Thực tiễn đó đã tạo cơ hội cho họ nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực làm việc với đối tác nước ngoài. Kinh nghiệm và trải nghiệm thực tiễn đó rất khó tìm được trong sách vở. Vì vậy, trong thời gian tới, cần tiếp tục tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được học tập, trao đổi kết hợp với công tác tại các quốc gia, khu vực trên thế giới nhằm nâng cao khả năng xử lý, ứng phó với các tình huống quốc tế và các vấn đề quốc tế. Đồng thời, đội ngũ cán bộ cần chủ động, tự giác hơn nữa trong học tập; tích cực tích lũy và đúc kết kinh nghiệm trong công việc; nâng cao năng lực tư duy và khả năng nắm bắt, tiếp cận kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Cùng với đó, cần áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để tăng cường nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề quốc tế và trau dồi phẩm chất quốc tế, không ngừng nâng cao khả năng giao lưu với cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, định hình chiến lược đào tạo cán bộ ở nước ngoài một cách bài bản gắn với hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng hiệu quả số cán bộ này sau khi về nước; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế.
Để thực hiện giải pháp này, trước hết, cần lập kế hoạch về học bổng quốc gia và học bổng địa phương, tập trung các nguồn lực du học do Nhà nước tài trợ để “ươm mầm cán bộ tài năng” cho đất nước; tập trung đào tạo “hạt giống đỏ” trong đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, đơn vị sự nghiệp ở Trung ương và địa phương; ưu tiên đào tạo cán bộ trẻ tài năng, có tư duy sáng tạo, phẩm chất đạo đức trong sáng và tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng, có ý chí học hỏi và vươn lên vì sự phát triển chung. Việc đào tạo nguồn cán bộ này gắn với nhu cầu nâng cao chất lượng công việc của cơ quan, đơn vị nói riêng và định hướng phát triển đất nước nói chung. Hơn nữa, kế hoạch đào tạo cần gắn kết chặt chẽ với kế hoạch sử dụng và phát triển cán bộ, từ đó, tạo cho họ có được môi trường, “sân chơi” tốt nhất để phát huy năng lực và kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy được trong môi trường quốc tế, phục vụ cho cơ quan, đơn vị, đất nước; tránh trường hợp đào tạo xong nhưng không sử dụng, gây lãng phí nguồn nhân lực.
Thứ tư, mở rộng các “kênh” trao đổi, hợp tác đào tạo giữa nước ta và các quốc gia, tổ chức quốc tế, tích cực phát triển hợp tác thực chất với các cơ sở đào tạo hoặc các đối tác nước ngoài trong các lĩnh vực và tìm kiếm các chương trình hợp tác đào tạo với nước ngoài cho cán bộ nước ta.
Trên cơ sở các chương trình, dự án đào tạo hiện có, tập trung mở rộng mô hình hợp tác, dự án đào tạo và lĩnh vực hợp tác đào tạo; đồng thời, tích cực xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về cán bộ học tập, làm việc tại nước ngoài. Làm phong phú và cải tiến mô hình hợp tác đào tạo, trao đổi đoàn; xây dựng các chương trình hợp tác đào tạo dài hạn và ngắn hạn, kết hợp với bồi dưỡng, đào tạo, thực tập ngắn hạn... để đáp ứng nhu cầu phát triển đa dạng của các lĩnh vực khác nhau. Mở rộng “kênh” và đổi mới mô hình hợp tác đào tạo, phát triển hợp tác đào tạo đa dạng, sâu rộng với các đối tác nước ngoài. Điều này sẽ giúp tăng cường khả năng đào tạo và nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ nước ta.
Thứ năm, có cơ chế, chính sách thu hút hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên gia, trí thức giỏi trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về phục vụ đất nước.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện có 5,3 triệu người, đang sinh sống, học tập và làm việc tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ; khoảng 80% trong số đó sinh sống và làm việc tại các quốc gia phát triển. Bên cạnh đó còn có đội ngũ gần 200.000 du học sinh Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản, Pháp và nhiều nước khác. Hiện có hàng nghìn kỹ sư, lập trình viên người Việt Nam có trình độ cao đang làm việc tại Thung lũng Silicon, Hoa Kỳ, trong đó nhiều người làm việc tại các công ty công nghệ hàng đầu thế giới, như Google, Facebook, Microsoft... và đã có rất nhiều cống hiến, đóng góp trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ, kinh tế, chính trị, văn hóa tại những nước họ đang sinh sống, học tập và làm việc(7).
Đây là nguồn nhân lực chất lượng cao, có tiềm năng dồi dào của Việt Nam, có khả năng đóng góp lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Họ cũng là một lực lượng góp phần đáng kể trong việc kết nối Việt Nam với thế giới, là cánh tay nối dài của Việt Nam với thế giới và đưa thế giới đến gần hơn với Việt Nam; đồng thời, là đội ngũ trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt Nam làm việc trong môi trường quốc tế.
Để huy động có hiệu quả sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự phát triển đất nước, trước hết, cần quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời kỳ mới. Đặc biệt, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004, của Bộ Chính trị, “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” và Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 19-5-2015, của Bộ Chính trị, “Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”; đồng thời, kịp thời quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận số 12-KL/TW, ngày 12-8-2021, của Bộ Chính trị, “Về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”. Trong đó, chú trọng quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm, chủ trương của Đảng về việc thu hút, sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thiết yếu, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đa số các chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đang sống, làm việc, học tập, nghiên cứu tại các nước phát triển, có các điều kiện sinh hoạt và công việc tốt hơn so với trong nước. Do đó, để thu hút đội ngũ này về nước làm việc, trước tiên cần khơi dậy tinh thần yêu nước, tình cảm hướng về quê hương, Tổ quốc, hướng về cội nguồn, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc, ước mong xây dựng đất nước giàu đẹp, hùng cường. Đồng thời, kịp thời cung cấp thông tin để họ nắm được những nội dung cơ bản trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của đất nước, nhất là những thông tin sâu về những ngành, lĩnh vực, những chương trình, dự án cần có sự hợp tác của họ. Điều quan trọng là, có cơ chế, chính sách hợp lý, cởi mở hơn nữa về đãi ngộ, điều kiện làm việc, sinh hoạt để động viên, khích lệ họ cống hiến, sáng tạo và yên tâm gắn bó với công việc, sẵn sàng hợp tác, cống hiến lâu dài./.
------------------
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 58 - 60
(2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135 - 136, 161 – 165
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 69 - 70
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 161 - 162, 217 - 218
(7) Xem: Hồng Nguyên, Tuấn Dũng: “Chính sách thu hút nhân tài nhiều nhưng còn bất cập”, Báo điện tử Chính phủ, http://baochinhphu.vn/Xa-hoi/Ky-2-Chinh- sach-thu-hut-nhan-tai-nhieu-nhung-con-bat-cap/ 427534.vgp, ngày 4-4-2021
Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế  (29/12/2021)
Đối ngoại của Hà Nội trong thời kỳ phát triển mới  (05/12/2021)
Công tác đối ngoại nhân dân của Thủ đô Hà Nội: Thực trạng và triển vọng  (02/12/2021)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính hội đàm, hội kiến và tiếp các nhà lãnh đạo cấp cao Nhật Bản  (24/11/2021)
Phản bác những luận điệu xuyên tạc về đường lối ngoại giao và hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta qua tổ chức những sự kiện đối ngoại lớn tại Việt Nam  (24/11/2021)
Xây dựng, quảng bá hình ảnh quốc gia trong chiến lược ngoại giao văn hóa  (23/11/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển