Báo chí cách mạng Việt Nam trước năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

NCS. Nguyễn Thị Thúy Hằng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội
09:18, ngày 06-11-2015

TCCSĐT - Trong giai đoạn 1925 - 1945, báo chí cách mạng Việt Nam mà đại diện là báo chí của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ. Dòng báo cách mạng này đã gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đòi quyền độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, được coi là vũ khí tư tưởng - lý luận của cách mạng Việt Nam, giáo dục lòng yêu nước, nâng cao nhận thức chính trị của quần chúng, góp phần đưa các phong trào cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.

Quá trình phát triển báo chí của Đảng trước năm 1945

Báo Thanh Niên xuất bản vào ngày 21-6-1925, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, được coi là mốc mở đầu của dòng báo chí cách mạng Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau báo Thanh Niên, Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra báo Kông Nông (năm 1926), Lính Kách mệnh (năm 1927),... Như vậy, dòng báo cách mạng Việt Nam đã xuất bản trước hết ở nước ngoài, gắn với hoạt động của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng dần dần mở rộng tầm hoạt động vào trong nước. Đây chính là nền tảng, cơ sở cho các tổ chức cộng sản ra đời, như Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 10-1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (tháng 01-1930).

Các tổ chức cộng sản đã rất chú trọng đến hoạt động báo chí nhằm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, thức tỉnh quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Đông Dương Cộng sản Đảng cho xuất bản tờ Búa liềm, cơ quan trung ương Đảng vào ngày 01-10-1929. Ban công vận của Đảng cho ra Tạp chí Công hội Đỏ; Tổng Công hội Bắc Kỳ xuất bản tờ Lao động; bên cạnh đó là báo tuyên truyền, cổ động, giáo dục công nhân ở các hầm mỏ, khu công nghiệp, như Hầm Mỏ ở khu công nghiệp Hòn Gai, Cẩm Phả; Dân Cày, Liềm để vận động nông dân,... (1). An Nam Cộng sản Đảng có Tạp chí Bônsơvích và Cờ Đỏ xuất bản ở trong nước, Đỏ của chi bộ ở Trung Quốc. Đông Dương Cộng sản liên đoàn vừa thành lập xong thì Hội nghị hợp nhất được triệu tập, nên chưa có báo riêng. Dòng báo cách mạng đã có khoảng trên dưới 50 tờ trong những năm 1925 - 1929 (2).

Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa quyết định đối với lịch sử dân tộc cũng như sự chỉ đạo đối với nền báo chí cách mạng. Từ đây báo chí của Đảng đã phát triển phong phú, cả về tên báo, do Trung ương và các cấp ủy Đảng, các chi bộ Đảng tổ chức ra; về phục vụ cho nhiều đối tượng cần tuyên truyền, cổ động và tổ chức; về báo chí trong tù, một hiện tượng lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử báo chí; về nội dung đấu tranh lý luận và chính trị với chủ nghĩa quốc gia tư sản, với Trotskyist, với các khuynh hướng cải lương; về công tác phát hành, ngay cả khi địch khủng bố dữ dội, tập trung vào tiêu điểm là Nghệ Tĩnh, thì báo chí của tỉnh, của các huyện ở Nghệ Tĩnh vẫn xuất bản và phát hành đến cơ sở.

Ngày 05-8-1930, Tạp chí Đỏ, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra số đầu tiên. Ngày 15-8-1930, báo Tranh đấu, cơ quan trung ương của Đảng ra số 1. Song song với báo chí của Trung ương, nhiều địa phương và cơ sở đã xuất bản tờ báo của mình. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ nhất tháng 10-1930, Tạp chí Đỏ và Tranh đấu ngừng xuất bản, thay vào đó là báo Cờ vô sản và Tạp chí Cộng sản, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 4-1931 cho đến tháng 4-1937, Đảng ta không có báo làm cơ quan ngôn luận của Trung ương, và cũng từ tháng 4-1931 đến tháng 5-1934, Đảng ta cũng không có tạp chí ở Trung ương (3). Tháng 6-1934, Ban chỉ huy ngoài nước của Đảng Cộng sản Đông Dương cho xuất bản Tạp chí Bônsơvích làm cơ quan lý thuyết của Ban chỉ huy; sau Đại hội I của Đảng vào tháng 3-1935, tạp chí đã trở thành cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ở trong nước, báo chí của các Xứ ủy Nam kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ cũng xuất hiện rồi ngừng xuất bản liên tục cùng với sự chống phá của địch đối với các Xứ ủy, như báo Cờ đỏ (năm 1932), Cờ lãnh đạo (năm 1933), Giải phóng (năm 1935) của Nam Kỳ, Tiến lên (năm 1931), Cờ đỏ của Bắc Kỳ, Công nông binh (năm 1931), Cờ đỏ của Trung Kỳ. Bên cạnh đó là hệ thống báo tỉnh ủy và liên tỉnh ủy, báo huyện, nhất là vùng Nghệ An, Hà Tĩnh.

Một điểm đặc sắc của báo chí cách mạng giai đoạn này là một số nhà tù, chi bộ chủ trương ra báo. Do nhu cầu rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận và chính trị cho cán bộ, đảng viên ở trong tù, đồng thời để đấu tranh về lý luận và chính trị với những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng đang theo chủ nghĩa quốc gia tư sản, ở một số nhà tù đã xuất hiện báo trong tù do các chi bộ Đảng Cộng sản chủ trương: Hỏa Lò Hà Nội có Con đường chính, Lao tù tạp chí (sau đổi là Tù nhân báo), Đuốc đưa đường, Đường cách mạng; ở Côn Lôn có Người tù đỏ, Qua tiếng sóng hận, Hòn Cau, Ý kiến chung… Điều kiện ra báo trong tù rất khó khăn, địch kiểm soát từng mẩu giấy nhỏ, nên ở một số nơi, như nhà lao Vinh, đã sáng tạo ra hình thức “báo nói”, không cần in, không cần viết mà có thể đến với bạn nghe rất nhanh.

Trong những năm 1936 - 1939, Chính phủ của Mặt trận nhân dân Pháp, do L. Blum đứng đầu, được thành lập, với những cải cách dân chủ, tiến bộ ở cả Pháp và các thuộc địa. Dựa vào phong trào cách mạng đang lên đến đỉnh cao trong cả nước, căn cứ luật tự do báo chí của Quốc hội Pháp, sự đồng tình của làng báo và những trí thức tiến bộ, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã quyết định cho ra báo Dân Chúng xuất bản công khai ở Sài Gòn vào ngày 22-7-1938, không xin phép, chống lại các sắc lệnh và nghị định về xuất bản báo chí tiếng Việt. Đến ngày 30-8-1938, chính phủ Pháp buộc phải chấp nhận quyền tự do báo chí ở Nam Kỳ.

Báo chí đã phát triển mạnh mẽ trong những năm 1936 - 1939. Một nét đặc biệt của giai đoạn này là báo chí cách mạng chiếm lĩnh trận địa công khai. Nếu như giữa năm 1936 trở về trước, báo chí cách mạng xuất bản bí mật, không hợp pháp, tuyệt đối cấm lưu hành trong nước, không kể báo tiếng Việt hay tiếng Pháp, thì đến thời kỳ này đã xuất bản công khai ở cả ở ba miền: Bắc, Trung, Nam, là tờ báo hoặc tạp chí của một nhóm đảng viên cộng sản chủ trương, của một đoàn thể quần chúng do một cấp ủy của đảng chỉ đạo, hay là cơ quan của Trung ương Đảng hoặc các xứ ủy, như L’Avant garde, Le peuple, Dân Chúng, Tin Tức, v.v... Nội dung cơ bản của báo chí cách mạng trong giai đoạn 1936-1939 gắn liền với phong trào vận động dân chủ, đồng thời tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Lần đầu tiên Văn kiện Đảng được đăng công khai trên báo Le peuple số 26, ngày 23-6-1938. Đặc biệt, vấn đề đối lập về hệ tư tưởng, đấu tranh giữa quan điểm lý luận và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương và khuynh hướng Trotskyist cũng là nội dung quan trọng trên mặt trận báo chí.

Ngày 01-9-1939, phát xít Đức tấn công xâm lược Ba Lan, châm ngòi lửa chiến tranh. Tháng 9-1940, Nhật vào Đông Dương, đế quốc Pháp đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Do diễn biến của cuộc chiến tranh, sự đàn áp khốc liệt của Pháp, sau thêm phát xít Nhật, báo chí cách mạng không còn mang hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp như trước. Chính sách báo chí của Đảng Cộng sản Đông Dương đã có những thay đổi. Một mặt, Đảng chỉ đạo kịp thời việc rút vào bí mật, hạn chế sự đàn áp, bắt bớ của địch; mặt khác, tìm tòi để xây dựng một hệ thống báo chí toàn diện hơn. Cuối năm 1939, đầu năm 1940, trong khi số lượng báo chí giảm đáng kể, Đảng vẫn chưa thể có một tờ báo thống nhất cho toàn Đảng, mà chỉ là báo của Xứ ủy như Giải phóng (Bắc Kỳ), Bẻ Xiềng sắt (Trung Kỳ), Tiến lên (Nam Kỳ). Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), Đảng đã chỉ đạo, “trong lúc này không nên đưa chủ nghĩa cộng sản ra tuyên truyền, huy hiệu cờ đỏ búa liềm cũng không nên dùng luôn. Các sách báo tuyên truyền không nên dùng danh nghĩa Đảng nhiều, phải lấy danh nghĩa các đoàn thể cứu quốc và Việt Minh thay vào”(4).

Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc xuất bản Việt Nam Độc Lập (năm 1941) của Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng, sau của Việt Minh Cao-Bắc-Lạng. Tháng 9-1941, Trung ương Đảng quyết định cho xuất bản Tạp chí Cộng sản, Tổng Bí thư Trường Chinh được phân công trực tiếp xây dựng tạp chí. Ngày 25-01-1942, đồng chí Trường Chinh cho xuất bản báo Cứu Quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Ngày 10-10-1942, xuất bản báo Cờ Giải Phóng, cơ quan tuyên truyền, cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 28-2-1943, xuất bản Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Các cấp bộ Việt Minh ra rất nhiều báo. Ngoài ra còn có báo “hàng dọc” của các đoàn thể Cứu Quốc… Cũng thuộc hệ thống báo Đảng giai đoạn này vẫn tiếp tục có loại báo trong tù như Suối reo ở nhà tù Sơn La, Bình minh trên sông Đà ở nhà tù Hòa Bình,… Lần đầu tiên trong phong trào yêu nước ở các vùng dân tộc thiểu số có một tờ báo riêng bằng chữ dân tộc: tờ Lắc Mướng, cơ quan tuyên truyền cổ động của Hội người Thái cứu quốc.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động báo chí

Nhìn lại lịch sử 1925 - 1945, ở Việt Nam đã tồn tại báo chí theo hai khuynh hướng tư tưởng cơ bản: Một là, ý thức hệ dân chủ tư sản - đại diện cho giai cấp tư sản và tiểu tư sản dân tộc, với tiếng nói đa dạng cho các đảng phái và xu hướng chính trị, như Đảng Lập hiến, Đảng Thanh niên, Việt Nam Quốc dân đảng, Đông Dương Lao động đảng, một bộ phận của Tân Việt đảng, báo chí của những người đối lập và cấp tiến... Hai là, ý thức hệ vô sản - đại diện cho giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam với tiếng nói đại diện cho Đảng Cộng sản Đông Dương, đi theo con đường cách mạng vô sản.

Nhìn lại lịch sử báo chí Việt Nam từ khi có báo Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập đến tháng 8-1945, có thể thấy báo chí cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Trước tiên, phải kể đến vai trò của báo Thanh Niên. Mặc dù xuất bản với khổ nhỏ, số lượng ít, xuất bản ở nước ngoài và chuyển về trong nước, nhưng đã “đánh dấu một mốc lịch sử của báo chí Việt Nam, khai sáng dòng báo chí cách mạng, đưa chủ nghĩa yêu nước vào trong nhân dân Việt Nam, nhất là trong thanh niên, theo xu hướng cách mạng vô sản. Báo Thanh Niên đóng vai trò lịch sử hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền, chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ chức cho việc ra đời các nhóm cộng sản vào cuối năm 1929 và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930”(5).

Và kể từ khi Đảng ra đời, sự lãnh đạo sát sao của Đảng đối với báo chí, cụ thể ngay từ Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng cho thấy Đảng ta đã coi báo chí là vũ khí sắc bén trên mặt trận chính trị tư tưởng. Đã có những tờ báo của Đảng để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử, như Tranh đấu (ngày 15-8-1930), tờ báo đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam; Tạp chí Đỏ (ngày 5-8-1930), tờ tạp chí đầu tiên của Đảng; tờ báo trong tù đầu tiên của những người cộng sản ở Hỏa Lò - tờ Tù nhân báo (tháng 3-1930), sau đổi tên là Lao tù tạp chí; hai tờ báo ra được nhiều số nhất đều do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, tờ Thanh Niên trên 200 số (thời kỳ Người chỉ đạo trực tiếp là 88 số), tờ Việt Nam độc lập xuất bản 126 số; tờ báo đi tiên phong trong phong trào đòi tự do báo chí là Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương (ngày 22-7-1938); tờ báo có số lượng in lớn nhất là Dân chúng (số Xuân năm 1939 in 15.000 bản), hai tờ báo có nhiều cống hiến nhất vào việc tổ chức lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là Cờ Giải Phóng và Cứu Quốc (1942-1945). Chính sự phát triển phong phú của báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ảnh hưởng rộng rãi của Đảng với quần chúng nhân dân, tăng cường vị thế của Đảng trong đấu tranh vận động cách mạng, góp phần tạo nên thành công của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Kể từ khi ra đời cho đến khi giành được chính quyền cách mạng (1930-1945), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo báo chí theo đúng nguyên tắc của V. I. Lê-nin: báo chí không phải chỉ là người tuyên tuyền và cổ động tập thể, mà còn là người tổ chức tập thể. Báo chí đã trở thành công cụ tuyên truyền đường lối cách mạng Việt Nam. Báo chí đã cổ động thực hiện các khẩu hiệu cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể, đoàn kết toàn dân, bênh vực quyền lợi của nhân dân, trước hết là công nông, đồng thời chú ý đến quyền lợi của các tầng lớp nhân dân khác trong xã hội. Báo chí cổ động nhân dân đòi những quyền tự do dân chủ, như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp,… Đặc biệt, báo chí tổ chức các phong trào tranh đấu. Có thể nói, các cao trào cách mạng trong những năm 1936 - 1939, 1939 - 1945 đều có những tác động trực tiếp từ hoạt động tổ chức quần chúng của báo chí. Báo chí còn phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng Đảng Cộng sản về tư tưởng, chính trị và tổ chức, đấu tranh cho Đảng thống nhất và tập trung, chống tư tưởng cục bộ, địa phương, vô tổ chức, biệt phái, đề cao tự phê bình và phê bình, liên hệ chặt chẽ với quần chúng; xây dựng các đoàn thể quần chúng phù hợp với tình hình chính trị từng thời kỳ; coi trọng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, tranh thủ xây dựng lực lượng ngay cả trong tổ chức của địch, như Viện Dân biểu,...

Trong bối cảnh hiện nay, báo chí vẫn là công cụ tuyên truyền, cổ động và tổ chức quần chúng. Báo chí cần phải bảo vệ và tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; coi trọng biểu dương người tốt, việc tốt, phê phán cái xấu, cái ác; đấu tranh chống lại những quan điểm, luận điệu sai trái, lối sống xa hoa, trụy lạc, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc, hành vi tham ô, lãng phí, quan liêu,... Các cơ quan báo chí cũng có thể là đơn vị tổ chức các phong trào hoạt động thực tế, như phong trào đền ơn đáp nghĩa, hoạt động từ thiện, các chương trình chính trị - xã hội có ảnh hưởng lớn trong quần chúng. Nhưng báo chí không chỉ là “công cụ tư tưởng sắc bén” của Đảng mà còn phải là “diễn đàn tin cậy của nhân dân”. Để từ đó, biết cách thông tin một cách đa dạng, nhiều chiều, làm tăng tính hấp dẫn và hiệu quả của báo chí./.
---------------------------------------------------------

(1), (3) Nguyễn Thành, Báo chí cách mạng Việt Nam 1925-1945, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 49, tr. 93.

(2) Đỗ Quang Hưng (Chủ biên), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001, tr. 80.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.126.

(5) Đào Duy Quát, Đỗ Quang Hưng, Vũ Duy Thông, Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925-2010), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 27.