Điện Biên Phủ trên không: Đòn đánh quyết định và những bài học kinh nghiệm

Nguyễn Thành Cung Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
21:54, ngày 28-12-2012
TCCSĐT - Cuộc tập kích của không quân chiến lược Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi trên miền Bắc tháng 12-1972 hoàn toàn nằm trong sự tính toán kỹ lưỡng của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, bất chấp sự phản đối, lên án mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước. Đó là nỗ lực cuối cùng, phản ánh sự bất lực của đế quốc Mỹ trong cuộc đấu trí, đấu lực với nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, nỗ lực cuối cùng đó của Mỹ bị nhân dân Việt Nam đáp trả bằng đòn đánh quyết định cuối cùng, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pa-ri. Nhiều bài học kinh nghiệm quý trong trận đánh lịch sử đó đang được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát huy trong công cuộc xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Nỗ lực thảm hại và đòn đánh quyết định

Bước sang năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam có bước phát triển mới. Ở miền Nam, với cuộc tiến công chiến lược trên 3 hướng chiến trường trọng điểm Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, quân và dân ta đã tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giải phóng cơ bản tỉnh Quảng Trị và giành quyền làm chủ nhiều địa bàn quan trọng khác, đẩy chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh"”của Mỹ đến bờ vực phá sản. Ở miền Bắc, quân và dân ta vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ. Trong khi đó, ở trong lòng nước Mỹ, số nghị sĩ Thượng viện và Hạ viện chống chính sách can thiệp vào chiến tranh của chính quyền R.Ních-xơn (Richard Nicxon) ngày càng tăng; phong trào xuống đường biểu tình đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân viễn chinh Mỹ và đồng minh của Mỹ về nước thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, nhất là các cựu chiến binh Mỹ. Đồng thời, nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới cũng kịch liệt lên án cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Trước sức ép từ nhiều phía, ngày 8-10-1972, Ních-xơn tuyên bố nối lại các cuộc thương lượng với Chính phủ ta ở Pa-ri; thông qua Dự thảo Hiệp định Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và thống nhất thời gian ký tắt và ký chính thức Hiệp định. Tuy nhiên, những hành động “mềm mỏng” và “thiện chí” của Mỹ chỉ nhằm đánh lừa dư luận, tạo điều kiện cho Ních-xơn giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ (tháng 11-1972), còn bản chất ngoan cố và hiếu chiến thì không thay đổi. Thực tế là, ngay sau khi trúng cử tổng thống nhiệm kỳ hai, Chính quyền Ních-xơn tìm mọi cách trì hoãn việc ký kết hiệp định; mặt khác, khẩn trương lập cầu hàng không, ồ ạt đưa vào miền Nam khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh và đốc thúc quân đội Sài Gòn đẩy mạnh các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. 

Đối với miền Bắc, Mỹ tập trung lực lượng không quân và hải quân đánh phá dữ dội các tuyến giao thông trên địa bàn Quân khu 4 hòng ngăn chặn chi viện nhân lực, vật lực của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Thâm hiểm hơn, Chính quyền Ních-xơn khẩn trương tiến hành chính sách ngoại giao nước lớn nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. 

Cùng với những âm mưu và hành động xảo quyệt trên, Lầu Năm Góc đã bí mật chuẩn bị kế hoạch tập kích đường không chiến lược bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu quan trọng trên miền Bắc mang mật danh Lai-nơ Bếch-cơ II (Linebacker II) nhằm khủng bố tinh thần, làm tê liệt ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta, tạo áp lực buộc ta phải khuất phục. Theo đó, tại bàn đàm phán Pa-ri, phái đoàn Mỹ đã lật lọng, yêu cầu phái đoàn ta phải sửa đổi những điều rất cơ bản trong Hiệp định theo hướng có lợi cho chúng. Thực chất, đây chỉ là cái cớ để Mỹ dừng cuộc đàm phán, chuyển sang thực hiện một “đòn quân sự quyết định” để có thể “nhanh chóng buộc Chính phủ Việt Nam phải trở lại Hội nghị Pa-ri, chấp nhận các đòi hỏi của Mỹ”(1). 

Như vậy, cuộc tập kích của không quân chiến lược Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi trên miền Bắc tháng 12-1972 hoàn toàn nằm trong sự tính toán kỹ lưỡng của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, bất chấp sự phản đối, lên án mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước. Đó là nỗ lực cuối cùng, phản ánh sự bất lực của đế quốc Mỹ trong cuộc đấu trí, đấu lực với nhân dân Việt Nam, đúng như sử gia Mỹ G.Kôn-kô (Gabriel Kolko) nhận xét: “điều duy nhất mà Nhà Trắng đã làm là tỏ ra có đầy đủ khả năng để dùng sức mạnh không quân hòng ép buộc một hiệp định hòa bình”(2).

Về phía ta, nhờ theo dõi sát diễn biến tình hình, Trung ương Đảng đã sớm nắm bắt âm mưu và hành động phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, đặc biệt là đối với Thủ đô Hà Nội. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiên đoán ngay từ cuối năm 1967: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”(3)

Đúng như dự đoán của ta, trong 12 ngày đêm (18-12-1972 - 29-12-1972), Chính quyền Ních-xơn huy động một lực lượng không quân chiến lược khổng lồ, với khoảng 200 máy bay B52 (gần 100% số B52 ở Đông Nam Á, 50% số B52 của quân đội Mỹ), 30 máy bay F111 “cánh cụp cánh xòe” và toàn bộ máy bay tiêm kích ở Đông Nam Á (hơn 1.000 chiếc), 6 liên đội tàu sân bay, 50 máy bay KC135 tiếp nhiên liệu trên không,... mở cuộc tập kích quy mô lớn xuống Hà Nội, Hải Phòng, phá hủy nhiều khu phố, làng mạc, nhà cửa, nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, trường học,... gây thiệt hại lớn về người và cơ sở vật chất kỹ thuật của ta.

Nhờ chủ động chuẩn bị về lực lượng, thế trận, ý chí và tinh thần, với cách đánh thông minh, sáng tạo, quân và dân Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương trên miền Bắc đã làm nên một trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”: bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52, hàng chục máy bay chiến thuật của Mỹ; riêng Hà Nội bắn rơi 25 máy bay B52. Cái gọi là "sức mạnh không lực Hoa Kỳ" đã bị thảm bại trên bầu trời Thủ đô Hà Nội.

Lời dự đoán 5 năm về trước của Bác Hồ đã thành hiện thực, “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972 là đòn đánh quyết định cuối cùng buộc chính quyền Mỹ phải chấp nhận nối lại đàm phán và nhanh chóng ký Hiệp định Pa-ri, kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam (ngày 27-1-1973).

Bài học kinh nghiệm

Để có được đòn đánh quyết định đó, chúng ta phải nỗ lực không ngừng trong xây dựng sức mạnh tổng hợp nội tại kết hợp với sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế trên cơ sở đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và cơ quan tham mưu các cấp. Những bài học kinh nghiệm quý cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát huy trong công cuộc xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là: 

Thứ nhất, nhạy bén trong nắm bắt, đánh giá, phân tích tình hình của Bộ thống soái tối cao và các cơ quan tham mưu chiến lược

Trước hết, chúng ta phải khẳng định, sự nhạy bén trong việc nắm bắt, phân tích tình hình, để có sự chỉ đạo kịp thời của Bộ thống soái tối cao và các cơ quan tham mưu chiến lược là nhân tố quyết định nhất làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Về chỉ đạo chiến lược, lời tiên đoán chính xác của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đế quốc Mỹ chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội” là định hướng quan trọng để các cơ quan tham mưu chiến lược chủ động đề ra những chủ trương, biện pháp tác chiến có hiệu quả nhất. Ngay từ tháng 4-1972, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân và các quân khu phải sẵn sàng đối phó với khả năng Mỹ cho không quân, kể cả không quân chiến lược, đánh phá trở lại miền Bắc. 

Trên cơ sở những nhận định, chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh và Bộ Tổng Tham mưu, Quân chủng Phòng không - Không quân đã sớm hoàn thành Bản kế hoạch chiến dịch đánh trả cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và các tài liệu hướng dẫn về cách đánh B52. Theo đó, công tác chuẩn bị mọi mặt được tiến hành hết sức khẩn trương. Việc điều chỉnh đội hình chiến đấu, triển khai sở chỉ huy dự bị các cấp, huấn luyện các kíp chiến đấu, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng quyết tâm, công tác bảo đảm vũ khí, khí tài, bảo đảm cơ sở vật chất,… cơ bản hoàn thành đúng thời gian quy định. Sau khi thông qua kế hoạch tác chiến, Bộ Tổng tham mưu khẩn trương điều chỉnh lực lượng, xây dựng thế trận của lực lượng phòng không 3 thứ quân, chuẩn bị kế hoạch phòng không nhân dân, sẵn sàng đối phó với âm mưu, thủ đoạn mới của địch. 

Thứ hai, xây dựng tinh thần tích cực, chủ động, quyết đánh và quyết thắng cho bộ đội phòng không và toàn dân, toàn quân

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”(4), có như thế mới tránh được tổn thất do địch bất ngờ gây ra, còn ta phát huy được hiệu quả chiến đấu cao. Ngay từ tháng 5-1966, Quân chủng Phòng không - Không quân đã điều động Đoàn Tên lửa Hạ Long cơ động chiến đấu, trực tiếp nghiên cứu cách đánh B52 tại chiến trường Vĩnh Linh. Đây là một quyết tâm rất cao thể hiện tư tưởng tích cực, chủ động tiến công của các đơn vị quân binh chủng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là Quân chủng Phòng không - Không quân. Sau thời gian dài kiên trì bám trụ trận địa phục kích đánh B52, đến tháng 9-1967, Đoàn Hạ Long đã bắn rơi B52.

Từ tháng 2-1968, theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã xây dựng kế hoạch tác chiến đánh máy bay B52 của Mỹ. Đến giữa năm 1972, Quân chủng liên tiếp điều động 4 trung đoàn tên lửa cùng một số máy bay MIG vào Khu 4 để chi viện cho chiến dịch Trị - Thiên và trực tiếp nghiên cứu cách đánh B52 và đã bắn rơi B52. Tuy chưa bắn rơi tại chỗ và chưa bắt sống được giặc lái, nhưng những kinh nghiệm được đúc kết từ những trận đánh này là cơ sở thực tiễn rất quý giá, trực tiếp giúp Quân chủng Phòng không - Không quân xây dựng Phương án đánh B52. Mặt khác, từ cuối năm 1972, bộ đội Phòng không - Không quân ta phải một lúc đảm đương ba nhiệm vụ nặng nề: vừa tiếp tục tham gia tác chiến trong đội hình quân binh chủng hợp thành ở chiến trường miền Nam, bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị, vừa phải bảo vệ giao thông vận chuyển trên địa bàn Quân khu 4 và trên tuyến cửa khẩu vượt Trường Sơn, đồng thời luôn phải sẵn sàng đánh trả cuộc tập kích đường không quy mô lớn của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng...

Trước tình hình đó, theo chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh, Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị trong toàn lực lượng, giúp cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn về âm mưu thâm độc của kẻ thù, nhất là thủ đoạn sử dụng máy bay B52 đánh phá quy mô lớn ở miền Bắc, trọng tâm là Hà Nội, Hải Phòng. Trên cơ sở đó, động viên tinh thần tích cực, chủ động của các đơn vị quân binh chủng xây dựng quyết tâm, kế hoạch đánh B52. Có thể khẳng định, sự chủ động về tinh thần, ý chí và sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.

Thứ ba, xây dựng thế trận phòng không 3 thứ quân hoàn chỉnh, vững chắc

Trong cuộc đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, trên cơ sở đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, một thế trận phòng không nhân dân với lực lượng phòng không - không quân là nòng cốt đã được hình thành và từng bước hoàn chỉnh. Quân và dân Thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng cùng các tỉnh lân cận đã tổ chức được mạng lưới chiến tranh nhân dân rộng khắp cả ở thành thị và nông thôn, kết hợp vũ khí thô sơ với vũ khí hiện đại, trong một thế trận mà kẻ địch sử dụng các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và thế giới. Đặc biệt, việc xây dựng nên thế trận, sử dụng các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại ấy chính là những con người Việt Nam được rèn luyện và thử thách trong máu lửa của chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, những thanh niên được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, những trí thức thời đại Hồ Chí Minh là những người làm nên sức mạnh mới. Mặt khác, chế độ xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho quân và dân ta những tiến bộ rất nhanh. Những đường băng cất cánh của máy bay MIG, những trận địa phòng không liên kết đã tạo ra lưới lửa nhiều tầng, bệ phóng cho những quả tên lửa tới đích thực sự là những yếu tố có tính chất quyết định để tạo nên thế trận phòng không nhân dân hoàn chỉnh và vững chắc ở Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung. Thế trận đó đã được kinh qua những thử thách ác liệt của nhiều năm chống chiến tranh không quân của Mỹ, nên trước cuộc tập kích quy mô lớn của không quân chiến lược Mỹ, quân và dân Hà Nội vẫn bình tĩnh - đĩnh đạc bước vào cuộc đụng đầu lịch sử này, không mảy may nao núng mà còn vươn đến đỉnh cao của chiến thắng.

Thứ tư, tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo - tầm cao trí tuệ Việt Nam 

Chiến đấu chống lại cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ cuối tháng 12-1972 là cuộc đối đầu giữa lực lượng phòng không nhân dân Việt Nam với máy bay B52 - một phương tiện chiến tranh hiện đại bậc nhất thời bấy giờ - hoạt động trong màn nhiễu điện tử dày đặc. Do vậy, đây thực sự là một cuộc đấu trí, đấu lực đỉnh cao của cả hai phía. Tầm cao trí tuệ Việt Nam được thể hiện trong tài thao lược, trong nghệ thuật chiến dịch phòng không, trong việc làm chủ vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại, trong sáng tạo cách đánh của từng binh chủng, của từng thứ quân, trong việc kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao ở bàn đàm phán Pa-ri. Đây chính là một quy luật đặc sắc của chiến tranh cách mạng - một dân tộc nhỏ muốn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của một siêu cường phải biết sử dụng cả ý chí và trí tuệ. Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, nơi hội tụ trí tuệ Việt Nam - qua thử thách của chiến tranh đã tự hào là “tọa độ lửa” đối với không quân Mỹ, là Thủ đô của lương tri nhân loại, phẩm giá con người, là nơi thể hiện đỉnh cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đây chính là một trong những nhân tố mang tính nhân bản, cội nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội, một sự bảo đảm vững chắc để chúng ta làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Điều này cũng đã được chính cố vấn đặc biệt của Chính quyền Ních-xơn là H.Kít-xinh-giơ (Henry Kissinger) thừa nhận: “nếu Việt Nam chỉ anh hùng không thôi thì chúng tôi sẽ đè bẹp, nhưng Việt Nam vừa anh hùng vừa rất thông minh, sáng tạo nên chúng tôi đã thua”. 

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã kết thúc toàn thắng cách đây gần 4 thập niên, nhưng Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972 - đòn đánh quyết định cuối cùng buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, rút hết quân viễn chinh và quân đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, mở ra thời cơ chiến lược lớn để quân và dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thu non sông đất nước về một mối - vẫn mãi là khúc khải hoàn ca âm vang trong tâm trí của các thế hệ người dân Thủ đô Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung và nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Hào khí Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” cùng những kinh nghiệm, bài học lịch sử của nó đã, đang và sẽ tiếp tục được phát huy, nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hôm nay và mai sau. /.

----------------------------------------------

(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, tập VII, Thắng lợi quyết định năm 1972, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 306.

(2) Gabriel Kolko: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập II, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, tr. 132.

(3) Hồ Chí Minh: Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 203.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, H,1995, t.7, tr.317.