Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo tinh thần Đại hội XII của Đảng

Đoàn Minh Huấn PGS, TS. Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
13:37, ngày 27-10-2016

TCCS - Một trong 15 nội dung của Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Đại hội XII của Đảng (tháng 01-2016) là “Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”(1). Nội dung này hàm chứa nhiều nhận thức mới của Đảng về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện mới.

Quản lý phát triển xã hội với tư cách là một phân hệ quản lý của đời sống với nhiều đặc thù cần được nhận thức đầy đủ

Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý đến khách thể (con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội, cơ cấu xã hội, chức năng xã hội...) nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững. Quản lý phát triển xã hội tác động tích cực đến đời sống xã hội, điều tiết các quan hệ xã hội, hoàn thiện các thiết chế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo đảm cho con người phát triển toàn diện. Khác với quản lý xã hội trong các chế độ trước đây là biến con người thành công cụ, phương tiện để bóc lột, nô dịch, sai khiến, phục vụ quyền lợi ích kỷ của giai cấp bóc lột thì quản lý phát triển xã hội trong chế độ ta lấy con người làm điểm xuất phát, dựa trên quyền con người, vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người, vì sự phát triển hài hòa và bền vững của xã hội(2).

Khái niệm “quản lý phát triển xã hội” lần đầu tiên được Đảng ta đưa vào văn kiện Đại hội XII, thể hiện cách tiếp cận mới trong quản trị phát triển quốc gia. Điều này xuất phát từ nhu cầu khỏa lấp những khiếm khuyết của quản lý phát triển xã hội chưa đồng bộ với quản lý phát triển các phân hệ - lĩnh vực khác của đời sống; xuất phát từ yêu cầu quản trị biến đổi xã hội, nhất là những vấn đề xã hội mới phát sinh; xuất phát từ tính đặc thù của lĩnh vực xã hội không hoàn toàn áp dụng các phương pháp quản lý hành chính hay tuân theo quy luật của thị trường đầy đủ, mà bị chi phối rất lớn của các thể chế phi chính thức, hoạt động phi lợi nhuận và được điều chỉnh bởi giá trị nhân văn, đạo đức xã hội.

Quản lý phát triển xã hội là một cấu trúc đa dạng, ở chiều cạnh này có khi bị điều chỉnh bởi thể chế chính thức, còn ở chiều cạnh khác lại chịu điều chỉnh bởi các thể chế phi chính thức; có chiều cạnh mang nội dung kinh tế, chịu điều chỉnh bởi quan hệ thị trường không đầy đủ, nhưng nội dung khác lại mang tính phi kinh tế chịu điều chỉnh bởi giá trị văn hóa, đạo đức. Quản lý phát triển xã hội hướng vào các nhiệm vụ cốt lõi: 1- Thúc đẩy phát triển con người, phát triển xã hội, như phát triển các năng lực xã hội, tạo động lực xã hội; phát triển các thiết chế xã hội từ gia đình, nhóm, cộng đồng đến các tổ chức xã hội dựa trên cơ sở cùng chia sẻ mối quan tâm chung về nghề nghiệp, lợi ích, giá trị, giới, địa vực, huyết tộc, tín ngưỡng, sở thích,... 2- Phát triển hài hòa cơ cấu xã hội, như cơ cấu các giai tầng; cơ cấu dân số, dân cư, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,... 3- Bảo đảm bình đẳng xã hội và đoàn kết xã hội (bình đẳng tộc người và đoàn kết dân tộc, tôn trọng đức tin và đoàn kết tôn giáo, bình đẳng giới, bình đẳng về cơ hội, đồng thuận xã hội...). 4- Thực hiện an sinh xã hội nhằm bảo đảm việc làm và thu nhập tối thiểu; phòng ngừa, giảm thiểu hoặc chia sẻ đối với những người mất hoặc suy giảm thu nhập do các rủi ro xã hội; bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu, cơ bản của con người (giáo dục, nhà ở, nước sạch, y tế, thông tin); thực hiện trợ giúp xã hội cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn, rủi ro. 5- Bảo đảm phúc lợi xã hội với thành tố cơ bản của nó là hệ thống dịch vụ công mà toàn dân được thụ hưởng, thực chất là phân phối lại thu nhập nhằm khắc phục bất công xã hội phát sinh từ phân phối lần đầu của thị trường. 6- Định hướng, kiểm soát các biến đổi xã hội (phân tầng xã hội, cơ động xã hội, di biến dân số, di chuyển dân cư, dịch chuyển lao động...). 7- Thực thi chính sách xã hội với từng đối tượng, lĩnh vực, địa bàn... nhằm bảo đảm hài hòa xã hội, giảm thiểu bất công xã hội (ưu đãi xã hội cho người có công, chính sách với dân tộc thiểu số, chính sách với người có hoàn cảnh khó khăn, chính sách với người yếu thế, lao động khu vực phi chính thức...). 8- Bảo đảm an toàn xã hội, như ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm xã hội, tệ nạn xã hội, lệch chuẩn xã hội; ứng phó với các mối đe dọa an ninh con người, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm... 9- Quản lý xung đột xã hội, như xử lý “điểm nóng” xã hội, giải tỏa đám đông, quản lý xã hội trong các tình huống bất thường (khủng hoảng tài chính, sự cố môi trường, tranh chấp quyền tiếp cận tài nguyên đất đai, nguồn nước...). 10- Xử lý các vấn đề xã hội mới nảy sinh trên nhiều phương diện khác nhau của đời sống con người (lao động, việc làm, tiền lương, hôn nhân, nhập cư, xuất cư, nhu cầu văn hóa - giải trí, vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo, xung đột công nghiệp...). Có thể phân chia thành nhiều nhóm nhiệm vụ quản lý phát triển xã hội khác nhau, thể hiện tính phong phú, đa dạng của phương diện xã hội.

Chủ thể quản lý phát triển xã hội rất đa dạng, gồm: nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng và nhân dân.

1- Nhà nước là chủ thể quan trọng của quản lý phát triển xã hội có trách nhiệm hoạch định thể chế, chiến lược, kế hoạch cho phát triển xã hội; bảo đảm cho mọi thành viên xã hội bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực và phát huy cao nhất năng lực của mình; điều tiết các mất cân đối do thị trường tạo ra; trực tiếp chăm lo và dẫn dắt ở những khâu mà thị trường không làm; hỗ trợ phát triển các đối tượng, cộng đồng, vùng, miền thua thiệt về cơ hội phát triển; khuyến khích tư nhân và cộng đồng tham gia phát triển xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau.

2- Các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng đa dạng khác là chủ thể nòng cốt của quản lý phát triển xã hội. Các tổ chức này được thiết lập và vận hành theo nguyên lý lợi ích, nghề nghiệp, giới, địa vực, sở thích, tín ngưỡng,... mà pháp luật không cấm, hoạt động theo thể chế xã hội do từng tổ chức này ban hành không trái với pháp luật. Tính đa dạng của các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng làm phong phú các hình thức quản lý phát triển xã hội, đáp ứng nhu cầu quản lý phát triển xã hội ở nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống vi mô mà nhà nước gặp giới hạn. Xã hội càng phát triển thì nhà nước dần chuyển giao cho các tổ chức xã hội nhiều chức năng quản lý phát triển xã hội. Các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng vận hành theo các nguyên tắc tự lập, tự dưỡng, tự quản, đồng thời có thể nhận ủy quyền của Nhà nước cung ứng một số dịch vụ xã hội dưới hình thức đặt hàng hoặc đấu thầu, tham gia giám sát và phản biện các chính sách của nhà nước để bảo vệ quyền lợi của thành viên.

3- Nhân dân là chủ thể quyết định của quản lý phát triển xã hội, bởi quyền lực nhà nước do nhân dân ủy quyền, nhà nước sinh ra là để thay mặt nhân dân quản lý những công việc mà nhân dân không tự mình làm được. Bên cạnh đó, có những nội dung nhân dân trực tiếp quản lý, ở đây có sự đồng nhất giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Xã hội càng phát triển thì các hoạt động tự quản ngày càng phổ biến trong quản lý phát triển xã hội. Nhân dân thực hiện vai trò quản lý phát triển xã hội không chỉ thông qua các cơ cấu đại diện, mà còn hiện diện trực tiếp với tư cách thể nhân để thực hiện quyền công dân, quyền con người. Tính đa dạng nêu trên của chủ thể quản lý phát triển xã hội đòi hỏi nhà nước phải tạo ra khung thể chế, môi trường cho các chủ thể ngoài nhà nước thực hiện tốt nhất vai trò, chức trách và lợi thế của nó, khắc phục tình trạng bao sân hoặc thoái lui vai trò, trách nhiệm của nhà nước trong quản lý phát triển xã hội.

Đối tác của các chủ thể quản lý phát triển xã hội là doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội và gia đình.

1- Doanh nghiệp không chỉ là chủ thể trên thị trường, mà còn là đối tác của nhà nước và các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng trong phát triển xã hội, trước hết là giải quyết các vấn đề xã hội trong phạm vi doanh nghiệp (giải quyết việc làm, đào tạo nhân lực, bảo đảm thu nhập gắn hiệu quả lao động, đóng bảo hiểm cho người lao động, xây dựng quan hệ hợp tác với công đoàn trong việc bảo vệ các quyền của người lao động...) và có thể dịch chuyển một phần lợi nhuận ra ngoài công ty để phát triển các tổ chức phi lợi nhuận. Do đó, trong nền kinh tế thị trường đầy đủ, nếu hình thành một cộng đồng doanh nghiệp mạnh, hoạt động minh bạch theo các nguyên tắc của thị trường, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước và bảo đảm quyền của người lao động, sẽ giải quyết được nhiều vấn đề xã hội. Ngược lại, một cộng đồng doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ, không bảo đảm quyền lợi của người lao động (lương, bảo hiểm, phúc lợi công ty), xung đột với công đoàn và không hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước, sẽ dẫn đến cản trở thực hiện các chính sách xã hội trên phạm vi quốc gia.

2- Các tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội có thể tồn tại, hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp xã hội, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp công, các tổ chức phi lợi nhuận tư nhân. Các đối tác này tham gia cung ứng dịch vụ xã hội đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng của quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Trong xã hội ngày càng phổ biến hình thức tổ chức phi lợi nhuận của tư nhân, khi pháp luật điều tiết mạnh buộc tư nhân chuyển một phần tài chính doanh nghiệp hoặc tài sản thừa kế sang đầu tư phát triển khu vực phi lợi nhuận.

3- Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò cực kỳ quan trọng trong tham gia quản lý phát triển xã hội, từ duy trì thu nhập tối thiểu để nâng cao mức sống và chất lượng sống cho các thành viên trong gia đình, kiểm soát dân số bằng hành vi tự giác của vợ - chồng, huy động nguồn lực tài chính để đầu tư vào giáo dục cho con cái, tham gia giám sát chất lượng dịch vụ giáo dục và chất lượng dịch vụ y tế trong tư cách thành viên hội phụ huynh, hội người tiêu dùng dịch vụ, thực hiện bình đẳng vợ - chồng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và phòng ngừa tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội từ gia đình...

Tính đa dạng của chủ thể quản lý và đối tác tham gia tất yếu dẫn tới đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho quản lý phát triển xã hội. Nếu như hoạt động hành chính nhà nước dựa vào tài chính ngân sách; hoạt động kinh doanh dựa vào vốn tự có và khả năng huy động bằng vay tín dụng, góp cổ phần... thì nguồn tài chính cho phát triển xã hội phong phú và đa dạng hơn rất nhiều, gồm cả tài chính ngân sách và tài chính phi ngân sách. Nguồn tài chính ngân sách dùng để đầu tư cho mở mang phúc lợi xã hội (mở trường học, bệnh viện, công trình công cộng) hoặc hỗ trợ trực tiếp các đối tượng khó khăn, yếu thế (như cấp học bổng, học phí, hỗ trợ bảo hiểm y tế, viện phí, trợ cấp xã hội...); tài chính doanh nghiệp phục vụ cho phát triển con người trong doanh nghiệp (trả lương cho người lao động, mở mang phúc lợi công ty, chi trả bảo hiểm cho người lao động...), hoặc góp phần thực hiện trách nhiệm xã hội (tham gia hỗ trợ nhân đạo, tài trợ cho các dự án phát triển xã hội...); tài chính tự quản của các tổ chức xã hội và tổ chức cộng đồng vận hành theo nguyên tắc phi lợi nhuận, huy động bằng đóng góp tự nguyện của thành viên nhóm và xã hội, tự quản trong chi tiêu và kiểm soát nội bộ; tài chính của hộ gia đình dựa vào tổng thu nhập của các thành viên gia đình phục vụ cho các dịch vụ xã hội theo khả năng chi trả tài chính ngoài những dịch vụ công do nhà nước chi trả phí gián tiếp thông qua dịch vụ công miễn phí hoặc phí thấp (như dịch vụ giáo dục, y tế, nước sạch, nhà ở, dịch vụ thông tin...), hoặc phát triển dịch vụ xã hội theo sở thích (mở thư viện tư nhân, bảo tàng tư nhân...), hoặc tài trợ cho xã hội qua các chương trình trợ giúp xã hội; tài chính cá nhân người lao động phục vụ cho bản thân mỗi người theo nguyên tắc phân phối theo lao động (tiền lương) hoặc theo nguyên tắc đóng - hưởng (như bảo hiểm xã hội), hoặc theo nguyên tắc kết hợp đóng - hưởng và chia sẻ trên phạm vi toàn xã hội (như bảo hiểm y tế).

Đa dạng hóa chủ thể quản lý, đối tác tham dự và nguồn lực tài chính tất yếu phải đa dạng hóa phương thức tổ chức quản lý phát triển xã hội. Nguồn lực tài chính công, có thể thiết lập các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp công ích... để cung ứng dịch vụ xã hội; có thể hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng cần hỗ trợ; có thể đầu tư phát triển hạ tầng xã hội nhằm bảo đảm phúc lợi chung; có thể ủy quyền cho tư nhân hoặc cộng đồng tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội; có thể hợp tác công tư dưới hình thức “đầu tư công, sử dụng tư”. Nguồn lực tài chính tư nhân do tư nhân tổ chức quản lý và sử dụng theo quy định của pháp luật, nhưng cũng có thể áp dụng hình thức “Đầu tư tư, sử dụng công”; hoặc vận hành dưới hình thức tổ chức phi lợi nhuận khi có sự điều tiết bởi luật pháp của nhà nước. Nguồn lực tài chính mà các tổ chức xã hội tự huy động được vận hành theo nguyên tắc tự quản, tự dưỡng, tự kiểm theo tôn chỉ mục đích của từng tổ chức.

Phương thức quản lý phát triển xã hội cũng rất đa dạng: những nội dung quản lý hành chính có sử dụng quyền lực nhà nước nhưng mang tính không tuyệt đối, mà bao giờ cũng gắn với tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục; những nội dung mang tính kinh tế có vận dụng các nguyên tắc thị trường, nhưng đó là quan hệ thị trường không đầy đủ (như áp dụng quy luật cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ xã hội); có những hoạt động dựa trên nguyên tắc chia xẻ, công thiện (như trợ giúp xã hội, nhân đạo từ thiện, bảo hiểm y tế...); có những hoạt động đề cao giá trị đạo đức để điều tiết các quan hệ xã hội (y tế, giáo dục thiện nguyện cho trẻ cơ nhỡ, khó khăn, giáo dục đặc biệt cho trẻ tàn tật...); có những nội dung đòi hỏi tinh thần tôn trọng các giá trị khác biệt gắn với phương pháp giáo dục, thuyết phục (như tôn giáo, tín ngưỡng...). Nếu như quản lý hành chính dựa vào quyền lực nhà nước, quản lý doanh nghiệp dựa vào quy luật của kinh tế thị trường, thì quản lý xã hội chủ yếu dựa vào quyền lực xã hội, bị điều chỉnh bởi cả thể chế chính thức và phi chính thức, trong đó thể chế phi chính thức (của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng,...) có vai trò cực kỳ quan trọng.

Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập quốc tế

Đại hội XII đã bổ sung những nhận thức mới về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập quốc tế; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển(3). Những quan điểm nêu trên không thuần túy là vấn đề kinh tế mà bao hàm cả quản lý phát triển xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập quốc tế, bao gồm: tác động của thị trường đối với phát triển xã hội khi vận hành đầy đủ theo các quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh; vận dụng các nguyên tắc của thị trường vào một số khâu trong quản lý phát triển xã hội, nhất là tổ chức cung ứng dịch vụ công, quản lý các quỹ an sinh xã hội; cơ cấu lại vai trò, chức năng của Nhà nước trong phát triển xã hội, khắc phục các khiếm khuyết của thị trường khi phân bổ nguồn lực; xác định các công cụ, phương thức can thiệp của Nhà nước đối với các lĩnh vực phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường đầy đủ, thể hiện trong từng bước phát triển và từng chính sách cụ thể.

Quản lý và phát triển xã hội trong điều kiện xây dựng một nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập quốc tế hoàn toàn khác với quản lý và phát triển xã hội trong điều kiện vận hành một nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ tồn tại 30 năm qua. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, gắn với phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập quốc tế thì thị trường là tín hiệu cơ bản để phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả, nhờ đó mà những người có năng lực được khẳng định, vươn lên giàu có chính đáng và được xã hội tôn vinh, làm cho phân tầng xã hội hợp thức trở thành dòng chủ lưu và hạn chế phân tầng xã hội phi hợp thức. Tư duy đổi mới nêu trên trao cho thị trường đầy đủ với chức năng phân phối lần đầu dựa trên năng lực, vốn đóng góp, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia kinh tế thị trường, xóa bỏ đặc quyền đặc lợi trong tiếp cận nguồn lực phát triển, hình thành đội ngũ doanh nhân, các nhà quản lý đủ năng lực, đủ tự tin bước ra thế giới thời kỳ hội nhập sâu rộng.

Tư duy nêu trên đòi hỏi phải cơ cấu lại vai trò, chức năng xã hội của Nhà nước, xóa bỏ tình trạng lồng ghép chính sách xã hội trong giá, bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá đối với những dịch vụ xã hội mà Nhà nước quản lý giá. Đồng thời, Nhà nước phải đổi mới chính sách đầu tư, trợ giúp, hỗ trợ cho các đối tượng thuộc diện nghèo, dân tộc thiểu số, những người chịu rủi ro trong đời sống. Ví như, trong giáo dục đại học đối với loại hình dịch vụ không thuần công, Nhà nước chuyển từ bao cấp giá (qua đầu tư xây dựng cơ bản và bảo trì cơ sở vật chất - kỹ thuật, chi trả lương nuôi bộ máy và biên chế, cùng nhiều khoản chi thường xuyên khác...) cho các đơn vị sự nghiệp công lập sang đầu tư theo hiệu quả hoạt động (dựa trên tỷ lệ đạt được các tiêu chí quản trị nhà trường chuyên nghiệp và hiện đại, tỷ lệ số giảng viên đạt chuẩn, tỷ lệ số giảng viên có bài báo quốc tế được công bố, tỷ lệ sinh viên loại giỏi, tỷ lệ sinh viên tìm được việc làm trên thị trường lao động...), mọi khách hàng mua dịch vụ giáo dục đại học đều trả theo giá thị trường, còn những đối tượng không có khả năng chi trả theo giá thị trường (đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, gia đình chính sách, đối tượng gặp rủi ro trong đời sống...) được Nhà nước hỗ trợ tài chính trực tiếp bằng cấp học bổng, miễn học phí và bố trí nơi ở trong ký túc xá.

Nhà nước với tư cách là một chủ thể trên thị trường, cần cơ cấu lại hình thức đầu tư tài chính, nhất là trong đầu tư phát triển các dịch vụ xã hội và hỗ trợ phát triển. Trước nhất là cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập trong cung ứng dịch vụ xã hội, xóa bỏ dần bao cấp qua giá dịch vụ, tính đúng và tính đủ các yếu tố hình thành giá dịch vụ, chuyển phí thành giá theo lộ trình phù hợp. Nhờ đó mà bảo đảm quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập khi tham gia cung ứng trên thị trường dịch vụ xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ cạnh tranh và nâng cao năng lực quản trị nội bộ, chuyển từ mô hình cung ứng sang mô hình phục vụ, lấy chất lượng sản phẩm dịch vụ và hiệu quả hoạt động làm tiêu chí đo kiểm. Đây cũng là cơ sở để thu hút tư nhân tham gia đầu tư phát triển dịch vụ xã hội phục vụ người dân, mở rộng các hình thức hợp tác công tư, đặc biệt trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao, an sinh xã hội...

Tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường trong phân bổ các nguồn lực để Nhà nước tập trung vào chức năng quản lý phát triển xã hội, từ định hình khung pháp lý, tổ chức cung ứng các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu mà tư nhân không làm, kiểm soát chất lượng các dịch vụ, hỗ trợ phát triển cho những đối tượng khó khăn, yếu thế, rủi ro. Vấn đề cơ bản là chuyển từ một nhà nước quản trị sang nhà nước kiến tạo phát triển, nhà nước phục vụ, thông qua cơ cấu lại đầu tư công để đầu tư đúng chỗ và cung ứng các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu, bảo đảm an sinh xã hội. Phân tách từng lĩnh vực cụ thể để xác định cơ chế, hình thức can thiệp, hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước phù hợp. Đối với những lĩnh vực tư nhân không tham gia, Nhà nước thực hiện trách nhiệm đầy đủ, đồng bộ từ xây dựng thể chế, chính sách quản lý, quy hoạch và kế hoạch đến thiết lập hệ thống tổ chức cung ứng, chi trả phí đến kiểm soát chất lượng, đồng thời phải tính đến yêu cầu tăng tính cạnh tranh trong khu vực công để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với những lĩnh vực có thể thu hút tư nhân tham gia ở từng khâu khác nhau, có thể hợp tác công tư dưới các hình thức: “đầu tư tư, sử dụng công” nhằm giảm bớt tình trạng lãng phí trong đầu tư công; “đầu tư công, quản trị tư” nhằm tăng tính năng động trong quản lý khu vực công nhờ vận dụng quy luật thị trường; “cung ứng tư, chi phí công, kiểm soát công” nhằm tinh giản bộ máy, nhân viên, chi trả lương cho khu vực công, đồng thời vẫn bảo đảm trách nhiệm nhà nước ở cả khâu chi trả phí và kiểm định chất lượng dịch vụ... Đối với những lĩnh vực tư nhân có lợi ích lâu dài, một số dịch vụ công ích hoặc dịch vụ sự nghiệp công có thể chuyển nhượng, ủy quyền hoặc hợp tác công tư, nhất là đầu tư, vận hành, bảo trì hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển xã hội.

Xã hội hóa cần được tiến hành toàn diện từ các yếu tố kinh tế - tài chính đến các yếu tố phi kinh tế - tài chính, cả trách nhiệm nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Xã hội hóa không phải là quá trình chuyển giao cho thị trường, thoái lui trách nhiệm của Nhà nước, mà cấu trúc lại chức năng nhà nước để tối ưu hóa hiệu quả hoạt động. Đối với xã hội hóa nguồn lực tài chính, phải xác định rõ cơ chế tài chính đối với từng loại chính sách, từng nhóm đối tượng mà định ra tỷ lệ đóng góp của người dân, của người sử dụng lao động, của Nhà nước; cơ chế cân đối thu chi, đầu tư phát triển các quỹ, định giá, cơ chế và tiêu chuẩn chất lượng cung cấp dịch vụ; cơ chế sử dụng tài chính công với quyền tiếp cận bình đẳng của các chủ thể tham gia phát triển xã hội từ các tổ chức công lập, tổ chức khu vực tư, tổ chức xã hội và cộng đồng. Cơ chế tài chính của các hợp phần chính sách thúc đẩy phát triển xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, cung ứng dịch vụ xã hội không hoàn toàn giống nhau. Có loại có thể áp dụng cơ chế đóng - hưởng (như bảo hiểm xã hội), có loại do cả chủ sử dụng lao động và người lao động đóng góp (như bảo hiểm thất nghiệp), có loại huy động từ xã hội (như từ thiện), có loại dựa vào tài chính ngân sách (như trợ giúp xã hội) hoặc kết hợp nhiều nguồn đa dạng (như các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu). Trong phát triển xã hội, đầu tư và hỗ trợ của Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, gồm cả tín dụng ưu đãi, nguồn lực đất đai và tài chính để tăng thêm năng lực cho quá trình xã hội hóa và bảo đảm trách nhiệm nhà nước trong xã hội hóa, như phát triển các dịch vụ giáo dục, y tế, hỗ trợ đào tạo việc làm... Đối với xã hội hóa nguồn lực phi tài chính, đây là một điểm yếu của xã hội hóa từ trước tới nay, cần có định hướng tốt về nội dung, nhất là vận dụng các nguyên tắc thị trường vào quản lý khu vực công, thu hút nguồn nhân lực theo hình thức mở, khắc phục hiện tượng khép kín của khu vực công, thu hút sự tham gia của xã hội vào kiểm soát chất lượng các dịch vụ xã hội, xây dựng các thiết chế xã hội tham gia kiểm tra, giám định, giám sát quá trình vận hành đối với các lĩnh vực xã hội hóa.

Xây dựng chính sách cho từng giai tầng, nhóm xã hội phù hợp với biến đổi cơ cấu xã hội và cơ động xã hội, bảo đảm an toàn xã hội và an ninh con người

Biến đổi xã hội tất yếu phải có chính sách can thiệp, quản trị biến đổi xã hội, trong đó có chính sách đối với mọi giai tầng, nhóm xã hội cụ thể. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội”(4).

Chuyển sang trình độ quốc gia có thu nhập trung bình, phân tầng xã hội và cơ động xã hội ở Việt Nam đã khác nhiều so với giai đoạn khi còn là một nước có thu nhập thấp. Tỷ lệ nghèo có xu hướng giảm dần nhưng giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao khi gặp khủng hoảng kinh tế, rủi ro xã hội, tai biến môi trường. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016) đã đánh giá: “Trong phân tích, dự báo sự biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, tư duy còn xơ cứng, đơn điệu, theo kiểu “hai giai một tầng - giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”; chậm nhận thức về sự hình thành và vai trò của các nhóm xã hội, của một số giai tầng xã hội mới như tầng lớp trung lưu, tầng lớp tinh hoa; xu hướng trung lưu hóa xã hội chưa được nhận thức đầy đủ”(5). Vì vậy, cần phải nhận diện đầy đủ các giai tầng, nhóm xã hội mới nổi để có chính sách can thiệp phù hợp.

Tầng lớp trung lưu(6) tăng nhanh nhưng chiếm tỷ lệ lớn là nhóm trung lưu dưới, dễ bị tái nghèo nếu gặp rủi ro xã hội, thiếu sinh kế bền vững, còn nhóm trung lưu giữa và trung lưu trên vẫn chưa chiếm số đông. Cơ động xã hội diễn ra mạnh mẽ, gắn với cấu trúc lại vị thế, vai trò, chức năng của từng giai cấp, nhóm xã hội phải được định dạng đầy đủ hơn và xác định chính sách can thiệp hợp lý. Cơ động xã hội theo chiều dọc là chuyển đổi mức sống, vị thế, vai trò nhưng vẫn giữ đặc tính giai tầng của nó (ví như nông dân trở thành chủ trang trại, công nhân cổ xanh trở thành công nhân cổ trắng, trí thức trẻ vươn lên trí thức hạng ưu, doanh nhân có quy mô vốn nhỏ vươn lên thành doanh nhân có quy mô vốn lớn). Cơ động xã hội theo chiều ngang là chuyển đổi mức sống, vị thế, vai trò gắn với thay đổi đặc tính giai tầng (ví như nông dân cơ động thành công nhân hay trí thức, công nhân cơ động thành trí thức, trí thức cơ động thành doanh nhân).

Vì vậy, xác định chính sách đối với từng giai tầng, nhóm xã hội không phải trong trạng thái tĩnh, mà trong trạng thái động để thúc đẩy vận động, biến đổi xã hội theo hướng tiến bộ. Nắm bắt được chuyển biến về mức sống, lối sống, tâm lý, hành vi tiêu dùng và xu hướng chính trị của từng nhóm xã hội, trên cơ sở đó mới can thiệp chính sách phù hợp để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong quản trị biến đổi xã hội. Chẳng hạn, hành vi tiêu dùng của nhóm xã hội khi đã trung lưu hóa hoàn toàn khác với hành vi tiêu dùng của bản thân họ khi còn ở mức nghèo, với xu hướng được thỏa mãn các hàng hóa, dịch vụ cao cấp hơn so với hàng hóa, dịch vụ cơ bản, thiết yếu khi thu nhập thấp. Theo đó, điều chỉnh hành vi tiêu dùng của từng nhóm xã hội không chỉ có ý nghĩa về phương diện kinh tế, mà còn xây dựng văn hóa tiêu dùng trong một xã hội văn minh, tránh rơi vào căn bệnh của xã hội tiêu dùng hoặc tiết chế nhu cầu một cách không cần thiết cản trở kích cầu nội địa phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Trung lưu hóa, kéo theo nó là những thay đổi của lối sống văn hóa, nhu cầu và khuynh hướng chính trị,... mà bất cứ thể chế nhà nước nào cũng cần nhận thức đầy đủ để định hướng phát triển đúng đắn. Khi đã được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, thiết yếu, tầng lớp trung lưu thường vươn tới các nhu cầu cao hơn, như nhu cầu khẳng định mình trong xã hội, nhu cầu thụ hưởng các giá trị văn hóa - tinh thần theo năng lực tài chính tự chi trả, nhu cầu tự do cá nhân... mà quản trị biến đổi xã hội phải nắm bắt và xử lý thỏa đáng. Đó là chưa kể khi tầng lớp trung lưu đã chiếm số đông trong xã hội, lá phiếu của họ sẽ quyết định đến các cuộc bầu cử, mà bất cứ ứng viên nào nếu muốn trở thành đại biểu dân cử trong các kỳ bầu cử Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân các cấp đều phải tính đến nhu cầu và lợi ích của họ.

Hệ thống an sinh xã hội thiết kế phải bảo đảm cho những người dù nghèo nhất cũng phải có mức sống và được hưởng các dịch vụ xã hội tối thiểu (ăn, mặc, nhà ở, giáo dục và y tế cơ bản, nước sạch, thông tin), được thụ hưởng các quyền an sinh cơ bản, thiết yếu; còn những người đủ năng lực tài chính chi trả cho các hàng hóa, dịch vụ cao cấp phải được đáp ứng theo quan hệ thị trường. Giải quyết tốt các nhu cầu đó sẽ giúp con người trưởng thành lành mạnh, tạo vốn xã hội cho phát triển bền vững, đồng thời duy trì xã hội trong trật tự, kỷ cương.

Hệ thống an sinh xã hội thiết kế hợp lý tạo năng lực phòng ngừa và ứng phó tốt với các mối đe dọa an ninh con người. An ninh con người là khái niệm lần đầu tiên được Đảng ta đưa vào văn kiện Đại hội XII(7) với nội hàm chỉ các mối uy hiếp, đe dọa đến cá nhân con người, do các tác nhân tự nhiên hoặc nhân tạo, như đói khát, bệnh tật, ma túy, mất an toàn thực phẩm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, tra tấn tù nhân, ô nhiễm môi trường, khủng bố, xung đột dân tộc, tôn giáo,... An ninh con người là bộ phận cơ bản cấu thành an ninh phi truyền thống. Ứng phó có hiệu quả với các mối đe dọa an ninh con người phải dựa trên cơ sở xây dựng, tăng cường năng lực cho cả hệ thống và mỗi thành viên của xã hội. Đó là ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và an toàn xã hội để phòng ngừa và chống chịu với các rủi ro; cải cách nền tư pháp để bảo vệ quyền tư pháp của con người, giảm thiểu và đi đến loại bỏ tình trạng án oan, án sai...; đấu tranh không khoan nhượng với hoạt động khủng bố, buôn bán người, tội phạm ma túy- những hoạt động đe dọa, uy hiếp an ninh con người ở cả cấp độ cá nhân và cộng đồng; không ngừng nâng cao mức sống và chất lượng sống cho con người bằng bảo đảm an ninh lương thực, an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo đảm quyền tiếp cận các nguồn lực phát triển, cung ứng các dịch vụ xã hội thiết yếu, cơ bản cho nhân dân. Cần hình thành hệ thống quản trị an ninh con người, được bảo đảm bằng bộ máy chuyên trách và huy động toàn lực lượng toàn xã hội tham gia.

Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội phù hợp với biến đổi xã hội và điều kiện phát triển mới của đất nước

Tại Đại hội IX, Đảng ta bắt đầu sử dụng khái niệm an sinh xã hội, dù nội dung của an sinh xã hội đã được thực hiện từ rất sớm. Đại hội X và XI của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển những nội dung mới của an sinh xã hội, đặc biệt Đại hội XII đã đặt ra yêu cầu: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống”(8).

Chính sách an sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia hướng vào bảo vệ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã hội trong trường hợp rủi ro bị suy giảm hoặc mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất. An sinh xã hội có hai chức năng cơ bản: một là, bảo đảm an toàn cho mọi thành viên trong xã hội ở mức tối thiểu về thu nhập (thông qua các chính sách việc làm và giảm nghèo) và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu (giáo dục cơ bản, y tế, nước sạch, nhà ở, thông tin); hai là, duy trì thu nhập khi mọi thành viên xã hội đang hoạt động kinh tế hoặc không hoạt động kinh tế vì các lý do, như ốm đau, thất nghiệp, thai sản, tuổi già, tàn tật, gặp rủi ro... bị suy giảm hoặc mất thu nhập (tạm thời hoặc vĩnh viễn) mà vẫn giữ được mức sống hiện tại, thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã hội. Đó là một hệ thống an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, linh hoạt, hỗ trợ lẫn nhau, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư, giữa các thế hệ. Hệ thống an sinh xã hội tập trung vào 4 nội dung chính sau đây:

1- Tạo cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu giảm nghèo bền vững cho người lao động thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển sản xuất (đào tạo nghề, tín dụng, việc làm có thu nhập, kết nối thị trường), được thực hiện bằng kết hợp ngân sách của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và gia đình. Vấn đề trọng yếu đặt ra là đào tạo phải gắn với giải quyết việc làm, nhờ đó có thu nhập tối thiểu, dựa trên một hệ thống sinh kế bền vững mà mỗi người phát huy năng lực tự an sinh của mình và trợ giúp của Nhà nước, cộng đồng xã hội. Đại hội XII của Đảng yêu cầu “Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ cơ bản”(9). Chuyển từ giảm nghèo đơn chiều sang giảm nghèo đa chiều là tư duy mới, nhìn nhận nghèo không chỉ ở các tiêu chí thu nhập, mà cả tiêu chí phi thu nhập. Nghèo đa chiều là tình trạng con người không được đáp ứng ở mức tối thiểu các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống. Do đó, giảm nghèo đa chiều là bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và một số dịch vụ cơ bản, như khám, chữa bệnh, học hành, nhà ở, nước sạch, thông tin - truyền thông. Nhờ bảo đảm cả tiêu chí thu nhập và phi thu nhập mà hộ gia đình hướng tới giảm nghèo bền vững, bảo đảm năng lực chống chịu, thích ứng trước các khủng hoảng, rủi ro, hạn chế tình trạng rơi vào tái nghèo, thúc đẩy trung lưu hóa xã hội.

2- Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động để chủ động đối phó với tình huống mất hoặc suy giảm thu nhập do các rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già, được thực hiện bằng nguyên tắc đóng - hưởng, đặc biệt chú ý khu vực lao động phi chính thức và lao động nông thôn. Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân theo nguyên tắc chia sẻ giữa các thành viên trong xã hội, kết hợp với hỗ trợ của Nhà nước cho đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

3- Hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói nghèo...) thông qua các khoản tiền mặt hoặc hiện vật do ngân sách nhà nước bảo đảm. Đại hội XII chủ trương “Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân”(10).

4- Tăng cường cơ hội tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục cơ bản, y tế, nước sạch, nhà ở, thông tin.

Phấn đấu dịch chuyển từ mô hình quyền an sinh xã hội cơ bản, nguồn lực hạn chế, phạm vi bao phủ hạn chế, cơ cấu mất cân đối sang mô hình quyền an sinh xã hội toàn diện, nguồn lực tăng dần phù hợp với điều kiện đất nước, mở rộng phạm vi bao phủ, cơ cấu hài hòa, toàn diện. Đó là thực hiện các quyền an sinh toàn diện đã được ghi nhận về mặt lập hiến và lập pháp; mở rộng độ bao phủ của đối tượng thụ hưởng, nhất là nhóm thu nhập thấp, người nghèo, nhóm yếu thế, lao động phi chính thức và lao động nông thôn, nhóm có nguy cơ rủi ro cao khi gặp các tai biến của môi trường tự nhiên và bất thường xã hội; đầu tư bằng nhiều nguồn khác nhau cho an sinh xã hội; cải thiện chất lượng các dịch vụ an sinh; cơ cấu lại hệ thống an sinh mang tính hệ thống, đa tầng, linh hoạt, hỗ trợ lẫn nhau.

Nắm bắt và xử lý có hiệu quả các vấn đề xã hội mới phát sinh trong quản trị biến đổi xã hội

Đại hội XII yêu cầu phải “... có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội (...). Kiểm soát và xử lý rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội”(11). Yêu cầu trên đây xuất phát từ thực tế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế làm xuất hiện không ít mâu thuẫn, nếu xử lý không tốt sẽ biến thành “điểm nóng”, thậm chí gây nên xung đột xã hội.

- Nắm bắt và xử lý một cách cơ bản các yếu tố có khả năng gây bất ổn xã hội phát sinh từ phân tầng xã hội. Cả phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội phi hợp thức đang diễn ra gay gắt, nếu không kiểm soát tốt, đều có khả năng gây nên các xung đột xã hội... Phân tầng xã hội hợp thức là hình thức biểu hiện của bất công tự nhiên, do cách biệt địa lý, rào cản ngôn ngữ, hạn chế của phong tập tập quán, thiếu nguồn vốn, hoặc thiếu trí lực, thể lực,... cần đến vai trò hỗ trợ, điều tiết của Nhà nước thông qua phúc lợi thu nhập và phúc lợi phi thu nhập. Phân tầng xã hội phi hợp thức là hình thức biểu hiện của bất công phi lý, do kẽ hở của cơ chế, chính sách mà tạo nên tình trạng bất bình đẳng về cơ hội giữa các nhóm xã hội khác nhau trong tiếp cận các nguồn lực phát triển. Một bộ phận lợi dụng kẽ hở của pháp luật, của cơ chế để làm giàu bất chính, hình thành nên “nhóm lợi ích” có lợi thế giành được các nguồn lực công (tài chính, đất đai, khoáng sản, hợp đồng béo bở...), đẩy các bộ phận khác trong xã hội vào thế bất lợi, không có cơ hội cạnh tranh bình đẳng. Khắc phục phân tầng xã hội phi hợp thức đòi hỏi phải xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ, hiện đại; tạo môi trường bình đẳng cho mọi chủ thể tiếp cận nguồn lực công, đặc biệt trong các khâu đầu tư công, mua sắm chính phủ, tiếp cận tài nguyên đất đai, khoáng sản..., ngăn chặn các kẽ hở phát sinh “lợi ích nhóm”.

- Xử lý hài hòa quan hệ lao động, quan hệ chủ - thợ trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo cam kết của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Các mâu thuẫn giữa người lao động với giới chủ bắt nguồn từ tình trạng bất hợp lý của chế độ tiền lương, thiếu quan tâm đến điều kiện an sinh, không chú ý cải thiện môi trường lao động (an toàn lao động, bảo đảm sức khỏe, vệ sinh), thiếu đầu tư cho phát triển nhà ở, các dịch vụ xã hội, văn hóa - giải trí cho người lao động. Nắm bắt các yếu tố có thể gây nên các mâu thuẫn, xung đột chủ - thợ phải bắt đầu từ nhìn nhận đến quan hệ lợi ích ở từng doanh nghiệp. Mâu thuẫn chủ - thợ cần được giải tỏa trong các cơ chế “ba bên” (chính quyền, chủ sử dụng lao động và đại diện cho lao động - công đoàn), với sự tham gia có trách nhiệm của đại diện cho người lao động, tinh thần hợp tác, đối thoại, chia xẻ giữa các bên.

- Hình thành kịch bản ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu, trong đó đụng chạm đến nhiều tầng nấc về phương diện quản lý và phát triển xã hội. Biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn dự kiến, không chỉ liên quan đến sinh kế, thu nhập hằng ngày mà còn đe dọa cả không gian cư trú, bản sắc văn hóa, nếu phòng ngừa và xử lý không căn cơ sẽ dẫn tới bất ổn xã hội hoặc tạo nên các làn sóng di cư nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề mới và khó, cần đầu tư nghiên cứu trên quy mô lớn với nhiều giải pháp tổng hợp liên ngành, kể cả hợp tác quốc tế, với nhiều kịch bản khác nhau, không chỉ chuyển đổi nghề nghiệp, tăng cường năng lực chống chịu và thích nghi của người dân, mà cả tổ chức lại không gian cư trú, xây dựng các thiết chế văn hóa.

- Xử lý có hiệu quả với các vấn đề xã hội phát sinh từ khủng hoảng, rủi ro xã hội. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, khi xảy ra khủng hoảng tài chính, người dân thường đổ xô rút tiền hàng loạt, bán tháo cổ phiếu, gây sụp đổ cả hệ thống ngân hàng hoặc rung động thị trường chứng khoán. Thảm họa môi trường không chỉ đe dọa đến ô nhiễm không khí, nguồn nước, mà cả điều kiện sinh kế lâu dài của cư dân. Khủng hoảng tài chính và thảm họa môi trường bao giờ gắn với hiệu ứng đám đông, gây nên các hệ lụy xã hội nặng nề, nếu không có biện pháp xử lý sẽ gây nên các đảo lộn xã hội. Để kiểm soát tốt các vấn đề xã hội phát sinh từ khủng hoảng tài chính, sự cố môi trường cần hình thành kịch bản quản lý xã hội trong trạng thái bất thường với những biện pháp đặc biệt, xử lý trong thời gian ngắn, hiệu lực cao. Không để các thế lực thù địch lợi dụng các sự kiện này để kích động hình thành đám đông chống đối chính quyền, tập hợp lực lượng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội phát sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, của sử dụng thành tựu khoa học - công nghệ. Trong điều kiện mới, tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa sẽ phát sinh những vấn đề xã hội phức tạp hơn, phạm vi lan tỏa rộng hơn, tác nhân tham gia đa dạng hơn, như di chuyển lao động xuyên biên giới, hôn nhân xuyên biên giới, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn bán ma túy, dịch bệnh lây lan nhanh ở người và động vật,... đòi hỏi phải phối hợp nhiều lực lượng, kể cả hợp tác quốc tế, mới có khả năng ngăn ngừa và ứng phó có hiệu quả. Mặt trái của sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ cũng tạo nên nhiều thách thức trên phương diện xã hội, như ứng phó và đấu tranh với tội phạm công nghệ cao, phòng ngừa và ngăn chặn tác hại của thông tin độc hại từ in-tơ-nét, các căn bệnh của xã hội ảo... Những biểu hiện mới nêu trên của các vấn đề xã hội đòi hỏi phải định hình phương thức ứng phó và quản trị mới, tổ chức lực lượng rộng rãi có thành phần nòng cốt, tinh nhuệ, chuyên nghiệp, huy động nguồn lực đầu tư có hiệu quả.

- Nhận diện, ngăn ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các biểu hiện lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo,... để xúi giục, kích động, tập hợp “đám đông”, tạo thành “điểm nóng” xung đột xã hội, thậm chí cả bạo loạn chính trị. Đối với những trường hợp này, vấn đề cơ bản là thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo; chăm lo đời sống của đồng bào các dân tộc theo quan điểm bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Đồng thời, phải nắm chắc địa bàn cơ sở, thấu hiểu tâm tư, tình cảm của nhân dân và xử lý thỏa đáng các vụ, việc ngay từ khi mới phát sinh, không để các thế lực thù địch lợi dụng kích động, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; đấu tranh không khoan nhượng và dập tắt mọi âm mưu gây bất ổn chính trị - xã hội,... khi mới manh nha, không để “điểm” biến thành “diện”, càng không được để chuyển hóa tính chất xung đột từ xung đột xã hội thành xung đột chính trị - xã hội.

Nắm bắt các yếu tố có nguy cơ gây nên xung đột xã hội để phòng ngừa, hóa giải và triệt tiêu ngay từ các mầm mống, không để tạo thành các “điểm nóng” chính trị - xã hội, không cho phép chuyển hóa tính chất từ mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thành mâu thuẫn địch - ta khi bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động. Các khủng hoảng về môi trường, khủng hoảng tài chính, mâu thuẫn trong quan hệ chủ - thợ, cùng nhiều bất công xã hội khác chưa kịp thời xử lý hoặc xử lý thiếu khôn khéo đều có nguy cơ chuyển thành xung đột xã hội. Do đó, quản trị xung đột xã hội là một vấn đề mới và cần định hình phương pháp khoa học trong điều kiện hiện nay.

Tất cả những vấn đề nêu trên đòi hỏi quản lý phát triển xã hội phải được quan tâm trên cả bình diện tổng thể và giải pháp cụ thể, có bộ máy và con người tổ chức thực thi chuyên trách và chuyên nghiệp, có nguồn lực được huy động đa dạng và quản lý tốt, với trách nhiệm của Nhà nước, sự tham gia của toàn xã hội và hợp tác quốc tế./.

-------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 132

(2) Xem thêm: GS. Phùng Hữu Phú, PGS, TSKH. Nguyễn Văn Đặng, PGS, TS. Nguyễn Viết Thông: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 260

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr. 103

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 134 - 135

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng kết: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), lưu hành nội bộ, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 108

(6) Giới nghiên cứu thường phân loại 5 kiểu phân tầng xã hội sau đây liên quan đến mô hình của tầng lớp trung lưu:

Tháp hình nón: Phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của xã hội, nhóm người giàu, có quyền lực ở phần đỉnh tháp chiếm tỷ lệ thấp; trong khi đa số nghèo khổ ở đáy tháp lại chiếm tỷ lệ cao; tầng lớp trung lưu ở thân tháp không phải chiếm số đông trong xã hội.

Hình nón cụt: Tầng lớp giàu có tăng lên, tầng lớp trung lưu chiếm tỷ trọng lớn hơn, mức độ bình đẳng cao hơn.

Tháp hình thoi (quả trám, con quay): Cả 2 nhóm giàu và nghèo đều chiếm tỷ lệ nhỏ, nhóm trung lưu đa số nằm ở phần thân tháp. Tuy nhiên, khoảng cách của 2 nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa.

Tháp hình trụ: Tỷ lệ các nhóm giàu có, nghèo và trung lưu tương đối đồng đều. Tùy vào chiều cao của tháp để nói về mức độ bình đẳng xã hội.

Tháp hình “đĩa bay” (thấp dẹt): Có thể có 2 trạng thái là bình quân nghèo khổ hoặc xã hội lý tưởng, thịnh vượng toàn dân, với tuyệt đại các thành viên xã hội có mức sống trung lưu và khá giả.

Thời kỳ bao cấp chúng ta đã rơi vào trạng thái thứ nhất. Ngày nay, nói tới thúc đẩy trung lưu hóa chính là chúng ta hướng đến trạng thái thứ hai, tức là xây dựng một xã hội toàn dân thịnh vượng, đại đa số thành viên trong xã hội có mức sống trung lưu và khá giả. Ở đây vừa có cuộc sống ấm no, hạnh phức, vừa có công bằng xã hội, hạn chế phân cực giàu nghèo. Với một xã hội trung lưu như vậy phản ánh trình độ một xã hội phát triển lý tưởng và cũng phản ánh công bằng xã hội theo đường lối của Đảng

(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.135, 137

(9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 137

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.135