Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam
TCCS - Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) đang ngày càng phát triển, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam là chiến lược quan trọng, góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt, tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2019, cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam, được bầu cử, giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị tại các xã, phường, thị trấn. Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng, giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đội ngũ cán bộ xã phần lớn vững vàng về chính trị, nỗ lực phấn đấu học tập, rèn luyện và trưởng thành từ cơ sở; một số được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Tuy nhiên, ở một số xã vẫn chưa có đủ cán bộ theo đúng tiêu chuẩn, chức danh. Trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ ở xã vẫn còn chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Việc bố trí, sử dụng cán bộ, công chức sau đào tạo còn bất cập, chưa phù hợp giữa chuyên môn đào tạo với lĩnh vực phụ trách. Công tác quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức còn thiếu đồng bộ dẫn đến chất lượng và hiệu quả công tác chưa cao.
Với mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, trình độ chuyên môn và năng lực trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế, cán bộ, công chức cấp xã cần đáp ứng một số yêu cầu như sau:
Thứ nhất, về năng lực, trình độ chuyên môn: Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và để phục vụ người dân tốt hơn, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có năng lực, trình độ để thực hiện nhiệm vụ chính trị, cung ứng dịch vụ công một cách hiệu quả. Điều đó đặt ra những yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức vừa phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vừa thông thạo kỹ năng hành chính, hiểu biết pháp luật, có năng lực làm việc và ứng xử phù hợp, đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng chính quyền cơ sở hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ tốt nhất nhu cầu của công dân.
Thứ hai, cán bộ, công chức cấp xã cần có tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị tốt, có trách nhiệm công vụ, đáp ứng cao nhất các nhu cầu của người dân, góp phần xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, xã hội đối với hệ thống chính trị cơ sở, chính quyền địa phương. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần có năng lực thực thi công vụ, tính chuyên nghiệp, đạo đức, liêm chính, minh bạch, trách nhiệm và bảo đảm chất lượng dịch vụ công cung ứng cho người dân, phải có ý thức trách nhiệm và thái độ, hành vi chuẩn mực trong thực thi công vụ, nhiệm vụ.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức cần có tư duy sáng tạo, đổi mới và có năng lực thích ứng với sự thay đổi, có khả năng nắm bắt, tiếp thu các kiến thức, kỹ năng mới trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ; công nghệ thông tin và chuyển đổi số được ứng dụng sâu, rộng trong quá trình thực hiện công việc của cán bộ, công chức cấp xã. Có như vậy, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, chất lượng dịch vụ công mà chính quyền cơ sở cung ứng cho xã hội mới bảo đảm tính nhanh chóng, hiệu quả, chính xác, đầy đủ, phục vụ tốt nhất cho các tổ chức và công dân.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần tuân thủ các chuẩn mực trong giao tiếp công vụ, văn hóa công sở, tích cực xây dựng văn hóa thực thi công vụ theo hướng phục vụ.
Vì vậy, trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần hướng đến việc thực thi đầy đủ các nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, phẩm chất nghề nghiệp, đạo đức công vụ để xây dựng, phát triển đội ngũ công chức cấp xã đạt về cả chất và lượng, thạo việc, thực việc, tận tụy với nhân dân.
Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam
Thứ nhất, cơ sở pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30cNQ-CP của Chính phủ, ngày 8-11-2011, xác định nhiệm vụ xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là khâu then chốt trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước(1). Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg, ngày 18-10-2012, phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”, trong đó đề ra nhiệm vụ phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đi đôi với việc củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, công tác tổ chức cán bộ. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 1-9-2017, “Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức” và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 01/2018/TT-BNV, ngày 8-1-2018, hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, nhấn mạnh những yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm, chức danh, yêu cầu công việc. Theo đó, xác định đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay là nhiệm vụ trọng tâm, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển bền vững của quốc gia. Đây là các căn cứ pháp lý quan trọng cho các chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước làm cơ sở tổ chức quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, năng lực, phẩm chất nghề nghiệp hợp lý theo ngành, thành phần kinh tế, khu vực, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước tại chính quyền cấp xã trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 theo đúng các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những quy định pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã vẫn còn không ít những bất cập, hạn chế, như chưa có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng riêng, phù hợp với đặc thù của đội ngũ này…
Thứ hai, công cụ quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là nhiệm vụ quan trọng nhằm bổ sung, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng chuyên môn, phẩm chất chính trị cho đội ngũ này theo những tiêu chuẩn nhất định. Đối với chính quyền cấp xã, các công cụ quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm kế hoạch, chương trình, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Mặc dù các công cụ quản lý nhà nước trên được xây dựng và triển khai ngày càng đầy đủ song vẫn bộc lộ rõ tính chất thụ động, chủ yếu là thực hiện theo các văn bản của cấp trên, chưa gắn chặt với nhu cầu của địa phương; chưa dựa vào công tác phân tích công việc, xác định vị trí việc làm và xây dựng khung năng lực đối với các vị trí chức danh; nguồn lực dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng hạn chế… dẫn đến hiệu lực, hiệu quả thực thi các công cụ quản lý nhà nước trên còn hạn chế.
Thứ ba, về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, từ trung ương đến cơ sở đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, trong đó có lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trong từng năm và cả nhiệm kỳ, tăng cường đào tạo theo vị trí việc làm.
Thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thời gian qua, cấp ủy và chính quyền các cấp đã thực hiện xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, áp dụng linh hoạt một số hình thức đào tạo, như: các lớp đào tạo, bồi dưỡng tập trung do Trung ương và địa phương tổ chức, các lớp tại chức, đào tạo từ xa…, qua đó tạo điều kiện cho số lượng lớn cán bộ, công chức cấp xã học tập, góp phần nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức này. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngày càng gắn liền với việc bố trí sử dụng sau đào tạo, luân chuyển, điều động cán bộ, công chức. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng tập trung dài hạn qua việc phối hợp với một số trường đại học, cao đẳng, trung cấp trong cả nước; tổ chức thực hiện kế hoạch bồi dưỡng từ Trung ương đến địa phương các lớp quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, lãnh đạo cấp phòng, các lớp lý luận chính trị, các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ một cách thường xuyên.
Tuy nhiên, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có nơi, có lúc còn một số hạn chế, như đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với quy hoạch, kế hoạch; đào tạo và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã chưa ăn khớp với nhau; việc đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự đồng bộ với yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam.
Thứ tư, về chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
Hằng năm, chính quyền các cấp, các ngành rà soát, đánh giá thực trạng trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện có, chủ động quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng các chức danh gắn với quy hoạch, bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã dự nguồn, cán bộ, công chức nữ. Rà soát toàn diện cán bộ, công chức cấp xã để lập kế hoạch đào tạo, phát triển theo phương châm thiếu tiêu chuẩn nào thì đào tạo, bồi dưỡng để hoàn chỉnh tiêu chuẩn đó.
Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ngày càng gắn liền với điều kiện đặc thù của từng địa phương; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng từ kiến thức tổng hợp, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lý luận quản lý nhà nước đến đào tạo, bồi dưỡng chương trình tiền công vụ, chương trình quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chính và bồi dưỡng kiến thức lãnh đạo, quản lý cấp phòng, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức ngoại ngữ, tin học.
Mặc dù vậy, chương trình đào tạo, bồi dưỡng vẫn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, trong khi cán bộ, công chức cấp xã lại cần nhất là những kỹ năng để giải quyết các vấn đề cụ thể; chương trình còn viết chung, chưa tách biệt cho từng vùng, miền; do còn hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất, sự thiếu thốn về nguồn lực và những hạn chế về địa lý đối với các xã ở vùng sâu, vùng xa nên chưa đủ điều kiện áp dụng công nghệ 4.0 vào trong giải quyết công việc, vẫn phải sử dụng phương pháp truyền thống, nên gây cản trở chương trình đào tạo, bồi dưỡng những công nghệ, kỹ năng mới cho cán bộ, công chức cấp xã…
Thứ năm, về chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
Để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, Trung ương Đảng, Chính phủ và cấp ủy, chính quyền các cấp ban hành các chế độ, chính sách đãi ngộ gắn với đào tạo, bồi dưỡng chế độ hỗ trợ tài chính cho việc học tập, chế độ lương, thưởng, quy hoạch, bổ nhiệm; ngoài ra còn chính sách đầu tư nguồn lực, chính sách tài chính cho phát triển giáo dục, đào tạo, kiện toàn hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục nghề nghiệp; chính sách phát triển đội ngũ giáo viên (chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ); chính sách đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục… nhằm góp phần nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng, phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những chính sách, chế độ trên vẫn chưa thực sự có sự đột phá để nâng cao rõ rệt chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Nhờ tổng thể các chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng nên chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngày càng được cải thiện.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Năm 2021, trong tổng số 226.210 cán bộ, công chức cấp xã, có 27.258 cán bộ, công chức đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ (chiếm tỷ lệ 12,05%); 180.991 người có trình độ đại học (chiếm tỷ lệ 80,01%); 12.306 người có trình độ cao đẳng (chiếm tỷ lệ 5,44%); 5.655 cán bộ, công chức có trình độ trung cấp và lao động phổ thông chưa qua đào tạo (2,21%).
Về trình độ lý luận chính trị: Trong tổng số 226.210 cán bộ, công chức cấp xã: có 10.587 người đạt trình độ cao cấp lý luận chính trị (4,68%); 32.325 người đạt trình độ trung cấp lý luận chính trị (14,25%); 74.310 người có trình độ sơ cấp lý luận chính trị (32,85%); 108.988 người chưa qua đào tạo (48,22%).
Về trình độ quản lý nhà nước: Trong tổng số 226.210 cán bộ, công chức cấp xã, có 204.313 người đã qua đào tạo (90,32%); 21.897 người chưa qua đào tạo (9,68%).
Về phẩm chất, năng lực thực hiện công việc: Trong năm 2021, theo báo cáo của Bộ Nội vụ, tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã hoàn thành nhiệm vụ trở lên chiếm 98,25% tổng số cán bộ, công chức; tỷ lệ công chức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và không hoàn thành nhiệm vụ chiếm 1,75% tổng số cán bộ, công chức cấp xã.
Về bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã: Đến năm 2021, 100% cán bộ, công chức cấp xã được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và được đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học theo Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.
Về trình độ đại học: Năm 2015, tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo đại học chiếm 68,50%, đến năm 2021 đạt tỷ lệ 80,01%; năm 2015, tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo có trình độ từ thạc sĩ trở lên chiếm 8,06%, đến năm 2021 đạt 12,05%; tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ cao đẳng giảm, năm 2021 chỉ còn 5,44%.
Trước tác động của đại dịch COVID-19 diễn ra, trong 3 năm 2019 - 2021, Bộ Nội vụ và chính quyền các cấp đã nhanh chóng chuyển hướng kịp thời, tạo sự thích ứng nhanh chóng trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã về trình độ chuyên môn, năng lực thích ứng, năng lực sáng tạo, các kỹ năng cần có (đã triển khai hàng vạn lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về công nghệ thông tin và kỹ năng sử dụng phần mềm họp trực tuyến Meeting, Trans và Zoom). Kết quả thực hiện là 100% cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam đã được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn đủ về công nghệ thông tin và các phần mềm trực tuyến để phục vụ thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Một là, cần xác định đúng đắn mục tiêu đào tạo, phát triển cán bộ, công chức cấp xã. Thực tế cho thấy, một số cán bộ, công chức cấp xã tham gia các lớp, các khóa đào tạo, bồi dưỡng chỉ để lấy chứng chỉ, bằng cấp nhằm hợp thức hóa những đòi hỏi về bằng cấp theo yêu cầu của cơ quan. Như vậy, mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng để thực sự nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đã bị xếp phía sau. Để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp, các cơ quan quản lý cán bộ, công chức, bản thân người cán bộ, công chức và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần xác định đúng đắn mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, lấy mục tiêu trang bị kiến thức lên hàng đầu, từ đó đào tạo đúng nhu cầu, đúng yêu cầu công việc, kích thích được nhu cầu lĩnh hội kiến thức một cách tự giác và hiệu quả cho học viên, góp phần nâng cao chất lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Hai là, cần đổi mới, cập nhật liên tục tính mới, tính thời sự, tính khoa học đối với tài liệu, giáo trình phục vụ đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Hiện nay, nhiều giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức còn lạc hậu, chưa cập nhật kiến thức mới. Vì vậy, cần cập nhật tính mới, tính khoa học, tính thời sự đối với hệ thống giáo trình, bài giảng, tập tài liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng. Đồng thời, cần giảm thiểu tính hình thức trong đào tạo, bồi dưỡng, mở lớp học tại các địa phương, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức cấp xã vừa học, vừa giải quyết công việc, nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng do cán bộ, công chức được thực hành tại cơ sở, vừa học vừa vận dụng vào thực tiễn công việc.
Ba là, tăng kinh phí đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Sẽ khó có hiệu quả cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nếu kinh phí đầu tư hạn hẹp. Vì vậy, cần tăng cường đầu tư tài chính, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao hiệu quả công tác này, nhất là đầu tư cho đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất học tập, giáo trình, chế độ, chính sách với người học…
Bốn là, gắn đào tạo, phát triển với sử dụng cán bộ, công chức cấp xã, đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện của cán bộ, công chức cấp xã sau đào tạo, bồi dưỡng. Đây là biện pháp không thể thiếu trong khâu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức bởi hiệu quả sử dụng cán bộ, công chức là kết quả trực tiếp của quá trình đào tạo mang lại. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức mà không sử dụng hiệu quả sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực và lãng phí tiền bạc, thời gian. Bên cạnh đó, sở nội vụ các tỉnh cần phối hợp với các phòng nội vụ tại các huyện tăng cường rà soát, đánh giá kết quả thực hiện công việc của cán bộ, công chức trước, trong và sau khi đào tạo, bồi dưỡng nhằm đo lường chính xác hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng mang lại./.
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của các hợp tác xã ở Việt Nam  (06/03/2022)
Quản lý nhà nước đối với các nền tảng thương mại kỹ thuật số xuyên biên giới - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách với Việt Nam  (24/01/2022)
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới  (15/01/2022)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm