TCCSĐT - Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử quý giá, kết tinh những tinh hoa tư tưởng, đạo đức, văn hóa và tâm hồn cao đẹp của Người trong những lời dặn dò cuối cùng cho toàn dân, toàn Đảng và bạn bè quốc tế. Trong rất nhiều việc tiếp tục làm, việc xây dựng và củng cố Đảng là điều được Người trăn trở và quan tâm đặc biệt.

Bởi thế, tháng 5-1968, khi xem lại bản thảo Di chúc, Người thấy cần phải bổ sung thêm mấy điều cần thiết. Người viết: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra ... Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi” .

Vì sao Bác viết: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”?

Tháng 5 - 1968 là thời khắc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn khó khăn, ác liệt nhất, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tiên liệu cuộc kháng chiến đó nhất định thắng lợi hoàn toàn. Người thấy trước rằng, đánh Mỹ và thắng Mỹ dù đòi hỏi nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng xây dựng đất nước sau chiến tranh, trong điều kiện một nước nghèo nàn, lạc hậu còn gian nan, vất vả, phức tạp gấp nhiều lần. Nếu Đảng không được chỉnh đốn, không được củng cố vững mạnh thì không thể lãnh đạo được sự nghiệp cách mạng, không thể đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới và cách mạng không thể tiến lên được, thậm chí rơi vào tự diệt vong. Bởi vậy, Người viết bổ sung vấn đề “trước tiên” này.

Công việc chỉnh đốn lại Đảng, khi cách mạng bước vào giai đoạn mới, được Người coi là “việc cần phải làm trước tiên”. Điều sâu xa là ở chỗ, Người viết hai chữ “trước tiên”! Đã “trước”, Người lại nhấn thêm “tiên”! Nghĩa là việc càng không thể đứng hàng thứ hai, trong bộn bề công việc cần kíp phải làm, sau thắng lợi, đất nước bị tàn phá nặng nề. Việc ấy, không phải là gì khác, mà chính là việc “chỉnh đốn Đảng”.

Rõ ràng, đó không phải là biện pháp tình thế, nhất thời mà là nhiệm vụ tất yếu để thực hiện vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, là sự vận động của bản thân Đảng trong thời kỳ cách mạng mới, sau khi giành được thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi, khi cách mạng thành công, người ta rất dễ rơi vào vũng bùn của những bệnh kiêu ngạo, chủ quan, duy ý chí, tự mãn, lạc quan tếu, quan liêu, xa rời quần chúng, hay nói như V.I. Lê-nin, “bệnh kiêu ngạo cộng sản”. Cán bộ, đảng viên rất dễ bị sa ngã trước sự quyến rũ của quyền lực và tiền bạc, rất dễ đánh mất mình, dễ mắc phải những thói hư, tật xấu như hống hách, chuyên quyền, lên mặt quan cách mạng, hẹp hòi, tư túi..., làm mất thanh danh của Đảng, bôi nhọ danh hiệu đảng viên cộng sản. Vì lẽ, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Những vấn đề trọng yếu của “việc cần làm trước tiên...”

Chỉnh đốn lại Đảng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm thường xuyên, liên tục, bao gồm nhiều việc.

Một là, tăng cường đoàn kết, thống nhất. Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đây được coi là nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vì đoàn kết, tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước giàu mạnh. Đoàn kết trong Đảng là bảo đảm đầu tiên và thường xuyên cho sức mạnh của Đảng. Cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức góp phần củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách và những nguyên tắc sinh hoạt của Đảng. Đoàn kết thể hiện sự nhất trí trong nhận thức và hành động, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lời nói và việc làm. Có đoàn kết trong Đảng mới đoàn kết được toàn dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đoàn kết phải trên cơ sở thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về chủ trương, đường lối, chính sách, lập trường tư tưởng, kiên định trong mọi tình huống, không hoang mang, dao động, xa rời lý tưởng của Đảng, xa rời đội ngũ, xa rời nhân dân.

Kinh nghiệm lịch sử cũng cho thấy, một cơ quan, một đơn vị, một quốc gia dân tộc khi mất đoàn kết, chia bè kéo cánh, đấu đá lẫn nhau, thường dẫn đến hậu quả khôn lường và là cơ hội tốt cho kẻ xấu lợi dụng, phân hóa nội bộ, tạo ra thời cơ thuận lợi cho kẻ địch tấn công làm tan rã tổ chức, tan rã Đảng, làm Đảng mất sức chiến đấu và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc đi đến thất bại. Bài học về đoàn kết là cực kỳ sâu sắc mà trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích rõ tác dụng của nó: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ Quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.

Hai là, nghiêm cẩn tự phê bình và phê bình. Người chỉ dẫn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Đây cũng được coi là biện pháp quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sự đoàn kết nhất trí. Nếu đoàn kết, thống nhất trong Đảng là vấn đề quan trọng hàng đầu thì cách tốt nhất để phát triển sự đoàn kết, thống nhất ấy phải là thực hành dân chủ rộng rãi, thực hiện tự phê bình và phê bình thường xuyên. Cần thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong nhân dân, trong việc xây dựng, ban hành các chỉ thị, nghị quyết, chính sách. Các cấp bộ đảng cần lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp vào việc xây dựng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Trong sinh hoạt đảng phải bảo đảm thực sự dân chủ, công khai, cởi mở, bình đẳng, dân chủ giữa cấp trên và cấp dưới, thực hiện dân chủ trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa ..., kết hợp hài hòa giữa dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong thực hiện dân chủ rộng rãi, cần khắc phục tệ quan liêu, gia trưởng, mệnh lệnh, cửa quyền, độc đoán, coi thường ý kiến người khác, dân chủ hình thức; đồng thời cũng phải ngăn chặn tình trạng lợi dụng dân chủ để gây rối, vô tổ chức, vô kỷ luật, tự do vô chính phủ.

Tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng là yếu tố quyết định giữ gìn uy tín của Đảng, giúp cho cán bộ, đảng viên sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Tự phê bình và phê bình phải thật sự đề cao dân chủ trong Đảng.

Hồ Chí Minh chỉ dẫn, tự phê bình và phê bình là để đi đến đoàn kết, thống nhất và phải trên cơ sở thực hiện dân chủ rộng rãi, mở rộng dân chủ nội bộ. Tổ chức đảng và đảng viên của Đảng phải nghiêm túc tự phê bình và phê bình. Trong phê bình phải có thái độ khách quan, trung thực, chân thành, thằng thắn, có lý, có tình có trách nhiệm giữa những người cùng chung lý tưởng, cùng chung chí hướng, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” mà lần này Người căn dặn là điều quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong vấn đề bảo đảm đoàn kết và bao trùm lên tất cả là trong các mối quan hệ giữa những người đồng chí cùng chung lý tưởng.

Tuy nhiên, cũng phải nghiêm khắc với tình trạng lợi dụng phê bình để đả kích, bôi nhọ, mạt sát đồng chí mình, gây mất đoàn kết nội bộ. Muốn lãnh đạo được quần chúng, cấp trên và cán bộ lãnh đạo phải tự phê bình nghiêm túc, chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của cấp dưới, của đồng chí mình; đồng thời phải động viên cấp dưới và quần chúng tham gia phê bình tổ chức đảng và đảng viên. Chỉ có một đảng dám mạnh dạn tự phê bình và phê bình mới có khả năng tập hợp, đoàn kết được đông đảo quần chúng dưới ngọn cờ của đảng tiến hành sự nghiệp cách mạng thắng lợi.

Ba là, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây được coi là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chỉ có mấy dòng mà Người nhắc đi nhắc lại đến các từ “thật”, “thật sự”. Điều này cho thấy, trước lúc đi xa Người rất quan tâm, trăn trở đến vận mệnh của Đảng và tương lai của đất nước đến chừng nào.

Đạo đức cách mạng, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là đạo đức mới, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích của Đảng, của dân tộc, của loài người. Nội hàm của nó rất sâu rộng, áp dụng chung cho mọi tầng lớp, mọi đối tượng, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để có đạo đức mới, cần rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chống thói hư tật xấu, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Chính sự nghiệp chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước giàu mạnh là công việc khổng lồ, là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, gian khổ nên Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh, phải phấn đấu đến cùng vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, phải coi đạo đức cách mạng là phẩm chất đầu tiên của người cách mạng.

Theo Người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống quan liêu là thuộc phạm trù đạo đức cách mạng. Đảng ta là đảng cầm quyền, nên phải thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và đứa con nòi của dân tộc và của nhân dân lao động. Đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phải có lập trường tư tưởng kiên định, phải mẫu mực về đạo đức và lối sống, phải có tầm cao trí tuệ để lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc ta. “Giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, “xứng đáng là người lãnh đạo”, “là người đầy tớ trung thành của nhân dân” là ba yếu tố được đặt trong một chỉnh thể thống nhất, biện chứng, gắn bó, bổ sung cho nhau, làm tiền đề, làm nền tảng bảo đảm sự phát triển vững mạnh của Đảng ta, theo tiến trình cách mạng.

40 năm Đảng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong vị thế là “việc cần làm trước tiên” - góp phần nhìn lại

Trước nhiệm vụ cách mạng mới, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng...”, theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 40 năm qua nhìn lại luôn rõ ràng cho thấy, Đảng ta càng làm công việc đó càng có ý nghĩa thiết thực.

Ngay sau khi Bác từ trần, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn gay go, ác liệt nhất, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta biến đau thương thành hành động cách mạng, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, dấy lên cuộc vận động “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” rộng khắp và tạo nên làn sóng thi đua sôi nổi trên khắp các mặt trận, ở tất cả các ngành, các giới, ở mọi lứa tuổi.

Bước vào thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò cầm quyền của Đảng lại đứng trước những thách thức mới. Tại Đại hội IV, Đảng ta tự phê bình: Chúng ta đã phạm sai lần nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện; khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội,... Đó là biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa hữu khuynh. Đất nước trì trệ kéo dài và rơi vào khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa đến độ gay gắt, căng thẳng. Niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, vì thế, giảm sút nghiêm trọng.

Bài học vượt qua nguy cơ của Đảng ta ở giai đoạn này, là Đảng tiếp tục củng cố, kiện toàn, chỉnh đốn về nhận thức, tư tưởng, tổ chức và các hoạt động của Đảng nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo ngang tầm nhiệm vụ cách mạng.

Bước vào lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, công tác xây dựng Đảng được tiến hành trong điều kiện có nhiều nhân tố mới trong và ngoài nước tác động mạnh mẽ và sâu sắc.

Trước hết, bản thân công cuộc đổi mới là sự nghiệp mới mẻ, phức tạp và khi bắt đầu tiến hành, Đảng ta chưa có sự chuẩn bị tương đối chu đáo về lý luận. Đối với nước ta vào thời điểm giữa những năm 80 thế kỷ XX, đổi mới là cần thiết, là đòi hỏi bức bách và mệnh lệnh của cuộc sống. Lúc bấy giờ nếu không đổi mới thì không thể vượt qua được khủng hoảng kinh tế - xã hội đã đến mức nghiêm trọng và với những khó khăn hết sức gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; đời sống nhân dân lao động khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi, có nơi nghiêm trọng; v.v.

Đồng thời, sớm xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong công cuộc đổi mới.

Để lãnh đạo đất nước tiến hành đổi mới toàn diện, trong đó lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kết hợp chặt chẽ ngay từ ngày đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, Đảng ta đã khẳng định: Công tác xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa then chốt. Sự khẳng định của Đảng về tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Đảng đã tạo ra trong toàn Đảng nhận thức đúng đắn về trách nhiệm củng cố, xây dựng từng tổ chức đảng, góp phần vào công tác xây dựng Đảng nói chung, khắc phục xu hướng hút vào các nhiệm vụ kinh tế, coi nhẹ công tác xây dựng Đảng. Trên thực tế, nếu không coi trọng đúng mức, tiến hành mạnh mẽ công tác xây dựng Đảng thì việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị cũng gặp nhiều trở ngại, các hoạt động kinh tế có thể có những lệch lạc.

Cuối cùng, chủ động mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tập trung vào các trọng tâm chính là tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.

Các đại hội và hội nghị Trung ương từ khoá VI đến khoá VIII đã chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm trong Đảng và đề ra các biện pháp khắc phục. Tình hình có chuyển biến nhất định, nhưng một số khuyết điểm chậm được khắc phục, có mặt diễn biến xấu hơn. Đó là tình trạng thiếu thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động; là sự sa sút, thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống, nhất là tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu; là tình trạng thực hiện không nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng v.v.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 3, khóa VII, tháng 6-1993, với Nghị quyết về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” đã trở thành một cuộc vận động lớn trong toàn Đảng.

Nghị quyết chỉ rõ: Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh của chế độ ta và Đảng ta. Mục tiêu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng trong tình hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề ra, trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị.

Nguyên tắc của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Yêu cầu và nội dung của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ, kiến thức, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng, tăng cường dân chủ và kỷ luật, củng cố khối thống nhất trong Đảng và trong nhân dân; chỉnh đốn hệ thống tổ chức của Đảng và tổ chức cơ sở đảng, trước hết là những cơ sở trọng yếu về chính trị và kinh tế, bảo đảm sự lãnh đạo thống suốt đến mọi cơ sở; tạo một bước chuyển quan trọng về công tác cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt ở trung ương, tỉnh, thành phố, một số cơ sở kinh tế, văn hóa quan trọng, đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Phương châm đổi mới và chỉnh đốn Đảng là, gắn với đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết với quá trình thực hiện và hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý, với kiện toàn tổ chức chính trị, với phong trào hành động của quần chúng, khơi dậy và phát huy óc sáng tạo của nhân dân; các cấp ủy phải tiến hành chủ động và kiên quyết, không né tránh, hữu khuynh, đồng thời có bước đi chủ động và phương pháp thích hợp, làm có trọng điểm, từ lãnh đạo đến đảng viên, giải quyết tốt những vấn đề có tầm vĩ mô đi đôi với củng cố cơ sở.

Cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng được chỉ đạo khá tập trung và kiên quyết, từ đó tới cuối năm 1998, đạt những kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Ngày 2-2-1999, Trung ương Đảng khóa VIII ra Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” đã phát động trong toàn Đảng cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình. Đây là sự tiếp nối Nghị quyết Trung ương 3, khoá VII, tháng 6-1993, nhưng có yêu cầu cao hơn, nội dung tập trung hơn và chỉ đạo thực hiện với tinh thần quyết liệt hơn. Với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và cách làm thích hợp, cuộc vận động đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, nên đã tạo ra một không khí mới trong công tác xây dựng Đảng.

Sau mấy năm thực hiện cuộc vận động, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước, nhất là về đường lối, quan điểm của Đảng; về vị trí then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về sự kiên định đối với nguyên tắc, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng; ý thức đề phòng, ngăn ngừa sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Nêu cao hơn tinh thần trách nhiệm, coi trọng việc mở rộng và phát huy dân chủ. Xử lý được nhiều việc nổi cộm, tồn đọng, thực hiện một bước chỉnh đốn, kiện toàn tổ chức đảng các cấp; thi hành kỷ luật và thay đổi một số cán bộ vi phạm, trong đó có cả cán bộ cao cấp, góp phần tích cực vào việc lựa chọn nhân sự đúng tiêu chuẩn cho bầu cử đại biểu Quốc hội khúa XI, XII và nhân sự cho Đại hội IX và X của Đảng. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng những kết quả thu được là đáng ghi nhận, từ đó Đảng ta cũng rút ra một số kinh nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.

*
* *

Đặc biệt, trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, trước yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ cách mạng và trước thực trạng của Đảng ta hiện nay thì xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng là nhiệm vụ then chốt, cơ bản, thường xuyên và cấp bách. Qua hơn 20 năm đổi, cùng với những thành tựu quan trọng mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong khi công cuộc đổi mới hiện nay đang đòi hỏi sự phấn đấu kiên định và bền bỉ để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và của dân tộc, thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt về ý tưởng, dao động về con đường xã hội chủ nghĩa, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống mà nhiều nghị quyết của Đảng đã chỉ ra là chưa khắc phục được. Chúng ta không thể xem thường tính chất nghiêm trọng của sự suy thoái đó. Nếu không chặn đứng và đẩy lùi sự suy thoái đang diễn ra trong Đảng thì sẽ dẫn đến nguy cơ làm biến chất Đảng, đe dọa sự sống còn của chế độ ta.

Đảng ta tiếp tục tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đồng thời với tiến hành Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, chính là nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và nâng cao vị thế của dân tộc ta, làm cho Đảng ngày càng xứng đáng là Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập, theo Di chúc của Người, xứng đáng là “đứa con nòi của giai cấp và nhân dân lao động” Việt Nam, tiếp tục dẫn dắt đất nước vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa./.