Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân nước ta hiện nay

Nguyễn Thanh Tuấn PGS, TS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
15:49, ngày 29-01-2018

TCCS - Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định việc tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, theo đó, “cần chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân”(1). Để thể chế hóa quan điểm này của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước cần thể hiện đầy đủ sự tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền an sinh xã hội của công dân theo thể chế dân chủ và pháp quyền.

Về tình hình bảo đảm thực hiện an sinh xã hội trong thời gian gần đây

Về thành tựu: Trong những năm qua, thu nhập và đời sống nói chung của người dân không ngừng được nâng lên. Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được cải thiện theo hướng tích cực. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức triển khai, thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính sách, pháp luật, chương trình phát triển thường được bổ sung, hoàn thiện nhằm điều tiết các quan hệ xã hội theo hướng hài hòa, ổn định và phát triển bền vững. Ngân sách nhà nước dành cho các chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thường xuyên tăng. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản 8 Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (giai đoạn 2000 - 2015) do Liên hợp quốc đề ra: xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói; phổ cập giáo dục tiểu học; tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ; giảm tử vong ở trẻ em; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng, chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; bảo đảm bền vững về môi trường; thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu về phát triển.

Đặc biệt, chúng ta đã chuyển từ cách nghĩ, cách làm có tính bao cấp, theo “cơ chế xin - cho” sang cách nghĩ, cách làm theo kiểu “hỗ trợ nhân đạo” và cả “hỗ trợ phát triển” trong bảo đảm an sinh xã hội; và thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm nghèo thuần túy về thu nhập để đang chuyển sang thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững về mức sống (thu nhập và những dịch vụ xã hội cơ bản). Đồng thời, thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách đối với người có công với nước, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa; quan tâm thực hiện chăm sóc sức khỏe cho người dân; tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro, nguy hiểm trong đời sống kinh tế, xã hội và môi trường; tạo được nhiều việc làm mới gắn với việc nâng cao chất lượng việc làm, trên cơ sở đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực. Nhờ đó, đã ổn định và từng bước nâng cao đời sống của đa số nhân dân.

Về hạn chế: Mặc dù chúng ta đã và đang thực hiện rất nhiều chính sách xóa đói, giảm nghèo nói riêng và an sinh xã hội nói chung, đặc biệt là cho đối tượng là những người có công với nước và các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội (người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em,...), nhưng hiện nay đã xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp trong quá trình triển khai, thực hiện các chính sách này, như việc bình xét hộ nghèo, hộ đối tượng chính sách không đúng và tràn lan; người ở diện nghèo không phấn đấu vươn lên mà tìm cách “giữ” tiêu chuẩn nghèo để trục lợi từ sự trợ giúp của Nhà nước; sự trùng lặp, chồng chéo tiêu chuẩn bảo hiểm y tế cho cùng một đối tượng (thân nhân cán bộ, chiến sĩ quân đội, công an, người nghèo, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số, người có công với nước,...); những khoản trợ giúp (tiền, hiện vật) bị thất thoát, tham ô; hay hằng năm phải duy trì, chi phí một nguồn lực không nhỏ cho việc cấp phát các trợ giúp bằng tiền, hiện vật đến các đối tượng chính sách;... Hậu quả lớn nhất của trình trạng này là duy trì một thứ tâm lý ỷ lại, thụ động, bao cấp trong một bộ phận nhân dân, nhất là người nghèo; và không thúc đẩy mạnh được quá trình hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Công tác quản lý phát triển, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều bất cập, khuyết điểm. Biểu hiện cụ thể là đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào các dân tộc thiểu số còn cao (ở một số huyện, xã tỷ lệ này lên đến 50%). Một số chính sách về an sinh xã hội, nhất là giảm nghèo, còn chồng chéo, kém hiệu quả và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp. Quỹ bảo hiểm xã hội chưa bền vững. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Do đó, việc giảm nghèo và phát triển nói chung chưa đạt được sự hài hòa, bền vững.

Hiện nay, nhiều lĩnh vực của phát triển bền vững chưa được nghiên cứu và thực hiện đầy đủ, hiệu quả, nhất là trong vấn đề môi trường và tái sản sinh con người theo hướng hài hòa về thế hệ và giới tính. Trong quản lý phát triển xã hội chưa xác định rõ định hướng và những nhiệm vụ mang tính tổng thể, đồng bộ, liên vùng, liên ngành, liên lĩnh vực, và còn bị chia cắt theo vùng, lĩnh vực quản lý, khu vực (hay thành phần) kinh tế; hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ. Chưa thể chế hóa và chưa có sự quản lý thống nhất ở cấp vĩ mô về phát triển xã hội bền vững. Hệ thống văn bản pháp lý về phát triển của từng ngành, địa phương chưa đồng bộ, thiếu nhất quán; nhiều chương trình, kế hoạch phát triển của từng lĩnh vực, địa phương chưa chú ý đúng mức đến phát triển xã hội bền vững của vùng, liên vùng và quốc gia.

Nguyên nhân là do chúng ta chưa nhận thức và chưa thực hiện tốt sự phát triển hài hòa trong xã hội, vì thế, chưa có cách nghĩ, cách làm, chính sách, giải pháp để chủ động giải quyết kịp thời, hiệu quả nhiều vấn đề xã hội phức tạp, như biến động cơ cấu xã hội, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, những bất an xã hội (rủi ro, mâu thuẫn, nguy cơ, đe dọa, nguy hiểm) trong đời sống của người dân, mâu thuẫn xã hội, trật tự, an toàn xã hội và an ninh cho con người.

Về thách thức: Quá trình chuyển từ công tác xóa đói, giảm nghèo, chủ yếu về thu nhập, sang thực hiện giảm nghèo bền vững về mức sống đặt ra thách thức là phải có những cách nghĩ, cách làm theo hướng khắc phục cơ chế bao cấp, cải biến cách nghĩ, cách làm theo kiểu “trợ giúp nhân đạo” thành cách nghĩ, cách làm theo kiểu “hỗ trợ phát triển” để tạo lập quyền cho công dân, nhằm phát triển xã hội hài hòa, bền vững. Đồng thời, phải thực hiện “Chương trình nghị sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc trong 15 năm tới” (2016 - 2030) được thông qua tại khóa họp Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 70 (ngày 25-9-2015). Chương trình gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDG) với 169 chỉ tiêu cụ thể, bao gồm: kết thúc đói nghèo, cải thiện sức khỏe và giáo dục, làm cho các thành phố bền vững hơn, chống biến đổi khí hậu, bảo vệ đại dương và rừng,... với lộ trình thực hiện tới năm 2030.

Yêu cầu đặt ra hiện nay: Một mặt, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách “trợ giúp nhân đạo” theo hướng xác lập chính sách “hỗ trợ phát triển”, trên cơ sở khắc phục cách nghĩ, cách làm có tính bao cấp, phù hợp với trình độ và bối cảnh mới của phát triển kinh tế và xã hội, để mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội; tạo điều kiện trợ giúp có hiệu quả, đặc biệt là cho các nhóm dễ tổn thương, bằng cách phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm, như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm bệnh nghề nghiệp,... với những tiêu chuẩn, tiêu chí mới, cao hơn, phù hợp với mục tiêu phát triển hài hòa và bền vững. Thí dụ, trong giai đoạn 2006 - 2010, chuẩn nghèo của Việt Nam đối với khu vực nông thôn là thu nhập dưới 200.000 đồng/người/tháng, đối với khu vực thành thị là 260.000 đồng/người/tháng; đến giai đoạn 2011 - 2015, chuẩn nghèo của Việt Nam đã lên mức 400.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 500.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị, cho phù hợp với việc nâng chuẩn nghèo quốc tế - từ mức 1,25 USD/người/ngày lên mức 1,9 USD/người/ngày (tương tương 40.000 đồng/người/ngày).

Mặt khác, thực hiện việc chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Các chủ trương, chính sách, pháp luật phải chuyển từ chỗ coi trọng cách nghĩ, cách làm theo kiểu “trợ giúp nhân đạo”, thậm chí theo cơ chế “xin - cho”, sang tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền an sinh xã hội theo thể chế dân chủ gắn với pháp quyền. Nhờ đó, từng bước tạo ra thể chế, điều kiện và môi trường xã hội để mọi người có quyền bình đẳng về: sinh kế bền vững; tham gia bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển; mức sống đủ ăn và khá giả; thụ hưởng các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong khuôn khổ thể chế dân chủ - pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Và quan trọng là, nhờ đó, xã hội và con người thoát khỏi cách nghĩ và cách làm có tính bao cấp còn sót lại sau gần 20 năm chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phương hướng, giải pháp chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân

Thứ nhất, nâng cao tính khoa học - thực tiễn trong công tác xây dựng, triển khai, thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình phát triển của Nhà nước đối với công tác an sinh xã hội.

Trước hết, nâng cao tính khả thi của các văn bản chính sách, pháp luật. Hiện nay, một số chính sách, pháp luật quy định còn khá chung chung, trừu tượng và thiếu chế tài cho việc bảo đảm thực thi trong thực tế. Chẳng hạn, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, khi quy định về các hành vi bạo lực gia đình, tại Điều 2, mục đ, khoản 1 quy định: “cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng là một hành vi bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy, hành vi bạo lực gia đình ở nước ta tuy có xảy ra nhưng thường được coi là chuyện riêng trong mỗi gia đình, vì thế, cơ quan có thẩm quyền khó có thể biết hết để xem xét, xử lý. Hơn nữa, rất khó thu thập đủ căn cứ để xác định một người có hành vi bạo lực tình dục trong gia đình. Do đó, tính hiệu lực của quy định này không cao.

Tiếp đó, bảo đảm tính thống nhất hay tính kết nối trong một số văn bản chính sách, pháp luật về an sinh xã hội, nhất là trong khâu tổ chức triển khai, hướng dẫn thực hiện của các cơ quan chủ trì khác nhau cho địa phương, cơ sở. Bởi vì, hiện nay, trong không ít trường hợp, cùng một văn bản chính sách, pháp luật nhưng được chia nhỏ cho nhiều cơ quan chủ trì thực hiện; từ đó, dẫn đến sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong quá trình hướng dẫn triển khai, thực hiện cho địa phương, cơ sở, gây khó khăn cho chính quyền cấp cơ sở trong quá trình tổ chức triển khai, thực hiện và báo cáo. Hoặc có một số văn bản pháp lý cùng quy định về một đối tượng thụ hưởng chính sách với nhiều mức thụ hưởng khác nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng, triển khai, rà soát đối tượng chính sách. Thí dụ, các văn bản quy định về giảm nghèo bền vững vừa được thực hiện trong chính sách chung hay trong Chương trình Mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 - 2015, theo Quyết định số 1489/QĐ-TTg, ngày 08-10-2012, của Thủ tướng Chính phủ, vừa nằm trong chiến lược áp dụng cho riêng các nhóm yếu thế khác nhau (dân tộc thiểu số, phụ nữ, người khuyết tật, người cao tuổi, người nghèo,...). Hậu quả là gây nên tình trạng chồng chéo, bất hợp lý trong quá trình triển khai, thực hiện trong thực tế.

Và tiếp nữa, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, cần tiến hành rà soát lại toàn bộ các quy định pháp lý về an sinh xã hội để đánh giá, thẩm định tính hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với thực tiễn của tất cả các văn bản pháp lý quy định về lĩnh vực này, nhằm điều chỉnh, bổ sung, thay thế hay bãi bỏ những văn bản pháp lý không còn phù hợp. Nhà nước nên nghiên cứu xây dựng, ban hành văn bản có tính pháp lý về “Khung hệ thống chính sách về an sinh xã hội”, trong đó nêu từng chính sách cụ thể, gắn với trách nhiệm chủ trì, thường trực và phối hợp của từng bộ, ngành, địa phương cụ thể, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ với các bộ, ngành, địa phương, nhằm thống nhất trong tổ chức hướng dẫn triển khai, thực hiện tại cơ sở, cho từng giai đoạn và với tầm nhìn cho giai đoạn kế tiếp.

Thứ hai, rà soát, kết nối các chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình hiện có để chuyển cách nghĩ, cách làm từ “hỗ trợ nhân đạo” sang “hỗ trợ phát triển”nhằm bảo đảm thực hiện an sinh xã hội.

Hiện nay, trước hết, nên đặt trọng tâm của chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình về an sinh xã hội vào việc chuyển cách nghĩ, cách làm từ “hỗ trợ nhân đạo” ít nhiều mang tính bao cấp sang cách nghĩ, cách làm “hỗ trợ phát triển” phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để từ đó tạo lập quyền an sinh xã hội của công dân.

Từ bài học về lãng phí nguồn lực và chồng chéo giữa các chương trình phát triển, trước hết trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân, từ năm 2012, Nhà nước đã thu gọn số lượng các chương trình về an sinh xã hội vào hai chương trình: xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Nhưng thực tế cho thấy, hai chương trình này cũng không thể bao quát được đầy đủ nội dung an sinh xã hội. Ngoài ra, nội dung an sinh xã hội còn được thực hiện thông qua các chính sách bảo hiểm và các chiến lược đối với từng nhóm xã hội, như đối với phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi,... Vì thế, phải thực hiện việc rà soát, kết nối, nhất là trong khâu tổ chức triển khai, hướng dẫn thực hiện cho địa phương, cơ sở, các chính sách, chiến lược và chương trình hiện có nhằm thống nhất thực hiện an sinh xã hội theo hướng hỗ trợ phát triển cho người dân.

Trên cơ sở đó, cần đẩy mạnh thực hiện cách nghĩ, cách làm theo kiểu “hỗ trợ phát triển” để người dân dễ dàng tiếp cận và thụ hưởng quyền an sinh xã hội đối với các dịch vụ xã hội cơ bản(2). Hiện nay, trên cơ sở thành tựu xóa đói, giảm nghèo đã đạt được, chuẩn nghèo đa chiều không chỉ gồm thu nhập với mức thu nhập dự kiến cao hơn mức hiện nay, mà còn gồm cả tiêu chí tiếp cận các dịch vụ cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin). Cho nên, cần có một số giải pháp hỗ trợ để người dân dễ dàng tiếp cận và thụ hưởng quyền an sinh xã hội đối với các dịch vụ xã hội cơ bản, như: 1- Tiếp tục triển khai các dự án phát triển kết cấu hạ tầng quy mô nhỏ (điện, đường, trường, trạm, thông tin) tại các xã vùng khó khăn; dành đủ nguồn lực cho công tác duy tu, bảo dưỡng và phát triển các nhóm sử dụng, bảo vệ công trình; 2- Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2016 - 2020, trong đó ưu tiên các xã vùng khó khăn; 3- Tiếp tục thực hiện Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg về hỗ trợ nhà ở và đất sản xuất cho hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2020, trong đó tập trung các giải pháp bảo đảm chỗ ở ổn định cho dân cư các xã vùng khó khăn, vùng bị tác động bởi thiên tai, nước biển dâng do biến đổi khí hậu.

Đồng thời, cần kết hợp các chính sách, biện pháp “hỗ trợ phát triển” với xây dựng và thực hiện chính sách, biện pháp đặc thù về “hỗ trợ nhân đạo”, để trước hết, tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững; thực hiện tốt chính sách việc làm công, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất việc; hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên... Tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong công tác trợ giúp xã hội. Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế(3).

Nhìn chung, trong việc xây dựng, thực hiện các chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình an sinh xã hội, nhất là về giảm nghèo bền vững, cần hạn chế tối đa các biện pháp trợ cấp trực tiếp bằng hiện vật hay tiền, tập trung hỗ trợ và bảo hộ hợp lý những công việc hoặc ngành hàng có triển vọng nhưng còn khó khăn, như trồng lúa, rau, hoa, cây ăn quả, chăn nuôi, đánh bắt hải sản,... bằng nhiều hình thức (thông tin thị trường, giống, thú y, bảo vệ thực vật, chế biến,...) để người nghèo phát triển sản xuất và hạn chế được những rủi ro trong quá trình sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Nhà nước hỗ trợ một phần và có chính sách thích hợp nhằm huy động các nguồn vốn để người nghèo đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, đổi mới chính sách an sinh xã hội theo hướng tạo lập và bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân.

Trước tiên, ưu tiên thực hiện giải pháp cơ bản và chủ yếu là thúc đẩy tạo việc làm và phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, doanh nghiệp tư nhân, nhằm kiến tạo phát triển cho người dân để họ chủ động, tích cực thực hiện quyền an sinh xã hội của mình. Bài học thời gian qua cho thấy, đối với người nghèo, vừa cần phải cho “con cá”, vừa cần phải cho “cần câu”. Nhưng giải quyết mối quan hệ này là không đơn giản. Vì thế, một bài học quan trọng là phải hỗ trợ thúc đẩy tạo việc làm, phát triển kinh tế hộ, kể cả kinh tế trang trại, doanh nghiệp tư nhân, để người dân tích cực, chủ động thoát nghèo, vươn lên khá giả và thực hiện các quyền an sinh xã hội nói chung. Đây cũng là giải pháp “hai trong một”, nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa “con cá” và “cần câu” không chỉ cho người nghèo.

Một giải pháp khó nhưng phải tích cực thực hiện là tiếp tục thể chế hóa nghĩa vụ, trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm quyền an sinh xã hội cho người lao động, nhất là cho đội ngũ làm công ăn lương ở khu vực kinh tế tư nhân và phi kết cấu, để bảo đảm quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn di cư vào thành phố; điều tiết và tạo việc làm cho một bộ phận lao động nông thôn “ly nông bất ly hương”; và cải biến những ngư¬ời bán hàng rong thành những người làm công hưởng thu nhập theo hướng hiện đại, văn minh.

Tiếp đó, tiếp tục thúc đẩy thực hiện chính sách tham gia các loại bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, gồm: 1- Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Thực hiện theo Luật Bảo hiểm xã hội; 2- Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Trên cơ sở thí điểm chính sách giai đoạn 2011 - 2015, xây dựng chính sách hỗ trợ một phần phí tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với lao động nghèo; 3- Bảo hiểm thất nghiệp: Thực hiện theo Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 127/2008/NĐ-CP về “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp”. Tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, chế tài để người sử dụng lao động và người lao động tham gia chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Từng bước mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp để bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội; 4- Bảo hiểm y tế: Tăng cường giải pháp tuyên truyền, khuyến khích cho 40% dân số nông thôn hiện nay chưa tham gia bảo hiểm y tế hướng đến bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng cường chất lượng và khả năng tiếp cận của người nghèo ở các xã vùng khó khăn đối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe; 5- Bảo hiểm nông nghiệp: Thực hiện thí điểm hỗ trợ nông dân nghèo tham gia bảo hiểm nông nghiệp nhằm bảo đảm đời sống và tiếp tục duy trì sản xuất.

Cuối cùng, tiếp tục khuyến khích phát triển các hình thức an sinh xã hội mang tính cộng đồng và phi chính thức theo hướng xã hội hóa. Trên cơ sở tổng kết các mô hình an sinh xã hội mang tính cộng đồng, phi chính thức có hiệu quả tại các địa phương, cần tổ chức thí điểm quỹ an sinh xã hội phi chính thức, như: 1- Quỹ phát triển thôn, bản: thực hiện các dự án nhỏ dựa trên sự tham gia và trao quyền cho cộng đồng, hướng đến cải thiện sinh kế, cải thiện kết cấu hạ tầng thôn, bản nhằm giúp đỡ người dân chống đỡ rủi ro tốt hơn; 2- Quỹ quản lý rủi ro cộng đồng: do người dân đóng góp và sự hỗ trợ từ bên ngoài, có thể bằng hiện vật hoặc bằng tiền, dùng để cứu trợ tức thời cho những hộ thiếu đói và gặp rủi ro. Ngoài ra, có thể xây dựng mô hình hợp tác liên kết trong chăm sóc và nuôi dưỡng các nhóm đối tượng bảo trợ xã hội, như chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng; hoặc xã hội hóa các phong trào giúp đỡ đối tượng khó khăn, như tổ chức Ngày vì người nghèo, phong trào tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách”, thành lập các tổ - hội - đoàn làm công tác cứu trợ (hội chữ thập đỏ, hội tương tế,...)./.

----------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 137

(2) Bao gồm 8 nhóm: nhà ở và đất sản xuất; nước sạch và vệ sinh môi trường; điện sinh hoạt; trường học; trạm y tế; nhà văn hóa; đường giao thông; tư vấn và trợ giúp pháp lý

(3) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 137