Bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam

TS. Vũ Ngọc Am
23:27, ngày 24-03-2014
TCCSĐT - Ngày 12-11-2013, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã bầu ra 14 thành viên mới bổ sung vào Hội đồng Nhân quyền. Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất so với 13 nước còn lại, đạt 184/192 phiếu thuận. Việc đông đảo các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc tín nhiệm bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền có ý nghĩa lớn về nhiều mặt.
Điều này thể hiện sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó có việc xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân.

Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh từ đấu tranh giai cấp, chống áp bức, bóc lột; đấu tranh giành độc lập dân tộc đến đấu tranh chống lại sự suy thoái về đạo đức, lối sống, hướng đến sự hoàn thiện phẩm giá con người... Trong diễn văn kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Cô-phi An-nan (Kofi Annan) khẳng định: Quyền con người là nền tảng cho sự hiện hữu và đồng tồn của nhân loại. Quyền con người là những gì lý trí đòi hỏi và lương tri yêu cầu. Quyền con người là những quyền bất cứ ai cũng có để làm người. Quyền con người chính là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích, năng lực của con người, với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện.

Như vậy, có thể thấy quyền con người là một trong những vấn đề có lịch sử lâu đời. Đó luôn là mối quan tâm của nhân loại và ở mỗi thời kỳ phát triển, quyền con người đều gắn liền và là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp cũng như các cuộc cách mạng - xã hội. Điều đó, phản ánh quá trình nhân loại tự giải phóng mình, do vậy vấn đề này bao giờ cũng là điểm nóng của cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng. Bảo đảm quyền con người chân chính thuộc bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa là quan điểm nhất quán của Đảng và của Nhà nước ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người


Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đặt nền móng lý luận và thực tiễn cho việc hình thành và phát triển khái niệm nhân quyền ở Việt Nam. Người khẳng định, quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, với độc lập chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Người chỉ ra rằng, quyền con người chỉ có thể có được thông qua con đường đấu tranh cách mạng chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người khẳng định, chỉ có như vậy thì các quyền cá nhân và quyền dân tộc mới được bảo đảm bền vững. Năm 1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi “Bản yêu sách của dân tộc Việt Nam” đến Hội nghị Véc-xai (Versailles). “Bản yêu sách” của Người gồm 8 điểm rất ôn hòa, yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ tối thiểu và cơ bản cho nhân dân Việt Nam, cũng như các dân tộc ở Đông Dương… Nhưng tất cả những yêu sách đó của Nguyễn Ái Quốc đều không được Chính phủ Pháp và các nước trong Hội nghị Véc-xai quan tâm.

Từ thực tiễn hoạt động cách mạng và ngày càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Người khẳng định: Quyền của mỗi con người luôn gắn chặt và không tách rời với quyền của dân tộc. Vì vậy, Người đã kiên trì đấu tranh đòi nhân quyền cho cả dân tộc, quyền tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Và, không dừng lại chỉ việc đòi quyền cho dân tộc Việt Nam, Người đòi quyền cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức bóc lột trên thế giới. Điều này đã được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập ở nước ta do Người trực tiếp soạn thảo và công bố ngày 02-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý lớn đó là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Và, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng hết sức sôi nổi và phong phú của mình, Người luôn kiên định mục tiêu đó. Người nói: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - đều là vì mục đích đó. Điều đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề con người và giải phóng con người, coi đó là mục đích cao nhất cần phải đạt tới trong mọi hoạt động cách mạng của mình.

Như vậy, từ những quyền cơ bản của con người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng thành quyền dân tộc, nêu rõ quyền con người trừu tượng thành những quyền cụ thể của người dân phải được sống trong độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Từ quyền của một dân tộc độc lập được Người nâng lên thành quyền độc lập của các dân tộc. Người đã dựa trên cơ sở về quyền “tự nhiên” để khẳng định quyền đấu tranh chống áp bức giành độc lập dân tộc, tự do của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. Đây là một cống hiến vô giá của dân tộc Việt Nam trong việc phát triển tư tưởng nhân quyền - giá trị văn minh của nhân loại, khẳng định một chân lý các quyền cơ bản của con người, gắn chặt với quyền được sống trong độc lập, hòa bình.

Thành tựu và cống hiến của Đảng và Nhà nước Việt Nam về nhân quyền

Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 80 năm qua, dân tộc ta đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử về nhiều mặt, đặc biệt trên lĩnh vực nhân quyền. Chúng ta có thể tự hào khẳng định, quan điểm nhân quyền chân chính của lý tưởng xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi sáng con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền, thắng lợi đó không chỉ giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam từ kiếp nô lệ thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình mà còn mở đầu cho phong trào giải phóng thuộc địa, mang lại nhân quyền cho các dân tộc bị áp bức, nô dịch trên toàn thế giới.

Thắng lợi của các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng nhân quyền cao cả, là thắng lợi của ý chí hòa bình, độc lập và phẩm giá con người. Với chiến thắng vĩ đại này, dân tộc Việt Nam có vinh dự lớn là biểu tượng cho lương tri nhân loại, là chiến sĩ tiên phong bảo vệ quyền con người được sống trong độc lập hòa bình và hạnh phúc.

Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, chúng ta đã hiện thực hóa một bước rất quan trọng các quyền con người và quyền công dân trên cả bình diện pháp lý và đời sống hiện thực:

Trong lĩnh vực chính trị,
chúng ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân. Quyền của người dân tham gia quản lý công việc nhà nước và xã hội, xây dựng một hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm các quyền con người và quyền công dân. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được đảm bảo bằng Luật Khiếu nại tố cáo với sự mở rộng cả về chủ thể và đối tượng khiếu nại. Đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, sâu rộng trong cả nước qua việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức đối với việc sửa đổi Hiến pháp, thi hành Hiến pháp, pháp luật và góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được Quốc hội thông qua năm 2013 thực sự là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Hiến pháp tiếp tục khẳng định yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, trách nhiệm của Đảng trước nhân dân; khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, Hiến pháp mới đã thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; đảm bảo và phát huy quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một vấn đề cốt lõi của nội dung nhân quyền là phải đảm bảo các quyền cơ bản của con người đó là: quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Các quyền ấy chỉ có thể được thực hiện khi các nhu cầu thiết yếu của con người được đáp ứng bảo đảm, về ăn, mặc, ở, về nước sạch, khám, chữa bệnh và giáo dục. Ðiều này cũng đúng với mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Người nói rằng: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Điều đó cho thấy, đời sống của nhân dân là biểu hiện sâu sắc, cụ thể nhất của quyền con người. Nhận thức sâu sắc điều này, trong nhiều năm qua Ðảng và Nhà nước ta luôn xác định: mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là xóa bỏ đói nghèo, nâng cao đời sống nhân dân gắn với bảo đảm các quyền của con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Ðồng thời, khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là nhân tố quan trọng để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện và đẩy mạnh hoạt động trong nhiều năm qua. Hàng loạt chương trình xóa đói, giảm nghèo đã và đang được triển khai, trong đó, Đảng và Nhà nước luôn xác định vấn đề giải quyết đói nghèo trong chiến lược phát triển bền vững, chính sách xóa đói, giảm nghèo được đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như của từng địa phương.

Những năm qua, mặc dù ngân sách còn khó khăn do tác động và ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới nhưng Đảng và Nhà nước vẫn ưu tiên bố trí tăng thêm nguồn lực để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đến nay cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 16,8%. Các Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai các hoạt động tín dụng với lãi suất cho vay ưu đãi đến tận từng thôn, bản, khu dân cư ở vùng sâu, vùng xa. Học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo cũng được hưởng các chế độ miễn, giảm học phí, được vay tín dụng. Chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đều có sự ưu tiên cho người nghèo. Bên cạnh đó, quyền tiếp cận những dịch vụ cơ bản như nước sạch, chăm sóc sức khỏe, giáo dục ngày càng được củng cố vững chắc. Với những kết quả đã đạt được trong chương trình quốc gia về an sinh xã hội, Việt Nam được Liên hợp quốc công nhận là nước đi đầu trong việc giảm nghèo và cải thiện sức khỏe cộng đồng theo các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.

Cùng với thành tựu về an sinh xã hội xóa đói, giảm nghèo, các quyền chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân cũng không ngừng được bảo đảm ngày càng tốt hơn, trong đó quyền làm chủ trực tiếp của người dân cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Từ một Chỉ thị của Đảng (Chỉ thị Số 30-CT/TW, ngày 18-02-1998 về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở), với nhiều yêu cầu, đặc biệt là quy định quyền của người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích hằng ngày của nhân dân tại cơ sở, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh bảo đảm quyền được biết, được bàn, được kiểm tra và quyết định những vấn đề kinh tế, xã hội của người dân ở cơ sở. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý của phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục cải cách hành chính, xây dựng thiết chế dân chủ để hiện thực hóa một bước quan trọng quyền làm chủ đại diện và làm chủ trực tiếp của nhân dân, chống sự tha hóa của một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị.

Kinh tế là cơ sở của đời sống con người, đời sống xã hội. Quyền con người trên lĩnh vực kinh tế bao gồm: quyền sở hữu, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền được hưởng những điều kiện làm việc công bằng. Những quyền này đã được ghi nhận và bảo vệ tại nhiều điều khoản trong Hiến pháp và đã được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự và Bộ luật Lao động.

Chế độ kinh tế ở Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm nhiều thành phần cùng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Điều đó có nghĩa là Nhà nước đã thực sự tôn trọng, bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng để phát triển năng lực của mọi người, mọi tổ chức kinh tế. Nhờ đường lối phát triển kinh tế đúng đắn mà quyền con người trên lĩnh vực kinh tế ngày càng được bảo đảm.

Quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Ngoài Luật Báo chí, Nhà nước đã ban hành các quy định cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm định kỳ cung cấp thông tin cho báo chí để tuyên truyền, giải thích rộng rãi trong nhân dân. Các cơ quan truyền thông của Việt Nam phát triển nhanh chóng, cho đến nay, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí; 68 đài phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương phủ sóng rộng, bảo đảm cho trên 70% dân số được xem truyền hình và trên 80% dân số được nghe Đài tiếng nói Việt Nam. Hơn 80 cơ quan báo điện tử, hàng nghìn trang tin điện tử, blog được phát triển rộng rãi đã và đang phát huy vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa thông tin của người dân. Tốc độ phát triển internet ở Việt Nam được xếp hạng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.

Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay đều ghi nhận việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Hiện Việt Nam có 06 tôn giáo chính là: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo, Hồi giáo với trên 20 triệu tín đồ. Mọi hoạt động của các tôn giáo ở trong nước đều được diễn ra bình thường theo đúng phương châm "tốt đời, đẹp đạo".

Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, theo thống kê của Bộ Khoa học - Công nghệ, cả nước có 24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ. So với năm 1996, đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó tiến sĩ tăng 7%/năm, thạc sĩ tăng 14%/năm. Điều đó cho thấy, quyền được học tập của mọi công dân ngày càng bảo đảm tốt hơn. Với đường lối văn hóa đúng đắn của Đảng ta, đặc biệt từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã mở ra thời kỳ mới xây dựng và phát triển một đời sống tinh thần tốt đẹp, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tạo ra môi trường và những điều kiện pháp lý thuận lợi cho mọi người tự do sáng tạo các giá trị văn hóa. Trên thực tế, việc bảo đảm quyền con người trên lĩnh vực văn hóa được thể hiện ngày càng phong phú. Chúng ta cũng có nhiều thành tựu trong việc thực hiện quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.

Nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, chúng ta có quyền tự hào khẳng định rằng: hơn 80 năm qua, dưới quan điểm nhân quyền chân chính của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, dân tộc Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu quan trọng và có những cống hiến xứng đáng trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển quyền con người, hơn nữa còn chủ động, tích cực tham gia và thực hiện nghiêm chỉnh công ước về nhân quyền của Liên hợp quốc.

Khẳng định những thành tựu và cống hiến đạt được trong lĩnh vực nhân quyền, dân tộc Việt Nam tiếp tục vững tin con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường đúng đắn để thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho mọi con người. Khẳng định điều đó, không phải để rồi chúng ta chủ quan, thỏa mãn mà càng cần phải nghiêm túc nhận rõ những hạn chế, nhược điểm của mình và càng phải có quyết tâm, trách nhiệm thực hiện kiên quyết những giải pháp đồng bộ, khả thi từ công tác giáo dục, quản lý đến việc hoàn thiện hệ thống pháp lý có hiệu lực, nhằm khắc phục tệ quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi./.