TCCSĐT - Việt Nam có một nền văn hóa dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước. Chính nhờ sức mạnh của nền văn hóa đó mà dưới ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc Việt Nam không hề bị đồng hóa và cuối cùng đã vùng lên giành lại nền độc lập.

Trong một nghìn năm độc lập tự chủ, dân tộc ta đã đánh thắng mọi kẻ địch xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần. Lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc đã để lại những áng thiên cổ hùng văn như: “Nam quốc sơn hà nam đế cư” của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô Đại cáo” của Nguyễn Trãi…

Dưới thời đại Hồ Chí Minh, bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một áng hùng văn kiệt xuất. Tiếp đó, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến cũng là áng hùng văn mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kéo dài chín năm kết thúc bằng thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ. Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.

Nội dung Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến gồm năm điểm:

1. Vì sao ta phải kháng chiến?

Thời gian qua, có ý kiến cho rằng: nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn một con đường khác, con đường thương lượng hòa bình chẳng hạn thì đất nước ta đã tránh được hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, đỡ hao tổn xương máu… Đây là một ý kiến không tính đến thực tiễn lịch sử. Thực tiễn lịch sử lúc ấy như thế nào? Hãy nghe lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Lúc ấy nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23- 9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với Chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người ký với đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Fontainebleau. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam.

Còn nước còn tát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14-9-1946. Ngày 16-9-1946, Người rời cảng Toulon (Pháp) trở về nước. Ngày 16-10 Người gặp D'Argenlieu ở vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23-11-1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí.

Trước tình hình đó, ngày 18 và19-12-1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.

Từ ngày 3 đến 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Đông) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương, tại đây ngày 19 tháng 12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20-12 tại Hang Trầm (Chương Mỹ - Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.

Như vậy, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng thực dân Pháp “quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Không còn con đường nào khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh buộc phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược:“Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là quan điểm cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

2. Quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta

Khi đã buộc phải kháng chiến thì Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm của nhân dân ta: Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Tiếp theo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là độc lập, tự do, hạnh phúc là những khát vọng của một dân tộc bị mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy ta có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.

3. Đánh như thế nào?

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Trong lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm chiến tranh toàn dân một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là ở hai chữ toàn dân.

Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò quần chúng trong lịch sử. Người luôn luôn nhắc nhở vai trò của dân: Dựa vào dân, có dân là có tất cả. Trong lịch sử dân tộc ta, Nguyễn Trãi đã từng nói: Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng chiến tranh toàn dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên năm 1944 trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, khi Người nói, cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân.

Chỉ thị này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân. Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân tộc.

4. Lời kêu gọi dành cho bộ đội, tự vệ, dân quân

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến!

Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.

Hưởng ứng lời kêu gọi này, mùa đông năm 1946, quân và dân Hà Nội đã nêu cao tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” nay đã trở thành truyền thống của Thủ đô. Xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, xây dựng và phát huy nhân tố chính trị tinh thần, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở cho mọi mặt xây dựng quân đội là một quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng.

5. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng

Kết thúc lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng:

Dù gian lao kháng chiến nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định sẽ về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Chín năm sau, lời tiên đoán này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành sự thật với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Ba mươi năm sau, đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm lá cờ chiến thắng lên nóc Dinh Độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, đem lại độc lập thống nhất cho đất nước./.