Liên kết vùng để đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững và thịnh vượng (kỳ 1)
TCCS - Là vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp, nơi cung cấp phần lớn giá trị hàng hóa nông sản cho xuất khẩu của Việt Nam. Song, hiện nay, vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đứng trước những tác động và thách thức rất lớn của tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,... Để bảo đảm tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, đòi hỏi vùng ĐBSCL cần cơ cấu lại và đổi mới mô hình tổ chức sản xuất theo hướng tăng cường liên kết giữa các chủ thể sản xuất từ trong nội bộ vùng đến liên kết ngoài vùng. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh của vùng, hạn chế sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa vùng ĐBSCL với các vùng, miền khác trong nước.
Nhận thức chung về liên kết vùng và sự cần thiết của liên kết vùng
Ở nước ta, liên kết kinh tế, liên kết vùng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Liên kết vùng không chỉ giúp tăng cường lợi thế cạnh tranh mà còn tạo điều kiện phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng trong phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống nhân dân.
Liên kết vùng là sự kết nối với nhau giữa các thành viên trong vùng và giữa các thành viên trong vùng với các thành viên khác ngoài vùng. Đó là sự phân công, phối hợp với nhau để nhằm khai thác những thế mạnh về chuyên môn, về tiềm năng, lợi thế của các thành viên; tạo ra mô hình tổ chức sản xuất mới, sức mạnh mới nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn so với việc từng địa phương, từng thành viên, từng doanh nghiệp sản xuất độc lập, riêng lẻ. Liên kết vùng tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sử dụng các nguồn lực sản xuất, nhằm đạt hiệu quả cao hơn thông qua việc nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp tiết kiệm nguồn lực đầu tư chung của xã hội, hạn chế tình trạng di dân tìm việc làm tạo gánh nặng xã hội cho các đô thị lớn, tạo ra sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền của đất nước. Không có liên kết vùng trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ rất khó để đạt được sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ - những trụ cột của sự phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy, liên kết vùng là cần thiết bởi những lý do cơ bản sau:
Liên kết vùng tạo ra sức mạnh tổng hợp trong phát huy tiềm năng, lợi thế của nhau, nhờ đó bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững. Điều kiện địa lý, tự nhiên và quá trình hình thành, phát triển của mỗi vùng là khác nhau nên mỗi vùng sẽ có tiềm năng, lợi thế khác nhau. Có vùng giàu tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản, nhưng không mạnh về công nghiệp chế biến hoặc ngược lại. Nếu chỉ khép kín các chương trình, kế hoạch, định hướng phát triển của từng địa phương trong nội vùng sẽ dễ làm cho vùng bị tụt hậu. Thực tiễn của thế giới năng động, hội nhập hiện nay cho thấy, không một vùng hay quốc gia nào tự mình khép kín mà có thể phát triển nhanh và bền vững được.
Liên kết vùng giúp tiết kiệm nguồn lực đầu tư chung của xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Từng địa phương sản xuất riêng lẻ, thiếu liên kết sẽ làm phân tán, lãng phí nguồn lực, dẫn đến tình trạng tốn kém chi phí đầu tư cho xã hội. Tình trạng đầu tư dàn trải, trùng lắp, không sử dụng hết công suất thiết kế của các nhà máy, cạnh tranh gây bất lợi cho nhau, thông qua việc phát triển ồ ạt các khu công nghiệp ở nhiều địa phương lân cận nhau ở nước ta thời gian qua là một minh chứng cho tình trạng yếu kém trong liên kết vùng.
Hạn chế tình trạng di dân, giảm gánh nặng xã hội cho các đô thị lớn, tạo sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền trong nước. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền trong một quốc gia thường tạo ra dòng người di chuyển từ nông thôn đến các đô thị để tìm kiếm việc làm, học tập, hưởng thụ văn hoá, thay đổi cuộc sống. Thực tế này đã và đang diễn ra, tạo không ít hệ lụy về kinh tế, xã hội, an ninh, trật tự cho nhiều thành phố lớn. Những biến động này cũng làm xuất hiện nguy cơ suy giảm nguồn nhân lực, giảm tiềm lực kinh tế, giảm thu nhập ở các vùng nông thôn. Thực hiện liên kết vùng là một trong những giải pháp quan trọng để góp phần hạn chế tình trạng trên.
Thực trạng liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long
Về tạo lập môi trường, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng, tạo khung khổ pháp lý cho thực hiện việc liên kết vùng. Cụ thể là, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg, ngày 10-10-2007, về việc “Ban hành quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm” để tăng cường sự hợp tác giữa các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm; Quyết định số 941/QĐ-TTg, ngày 25-6-2015, “Về việc thành lập tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015 - 2020”; Quyết định số 2059/QĐ-TTg, ngày 24-11-2015, “Về việc thành lập ban chỉ đạo, hội đồng vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015 - 2020”; Quyết định 593/QĐ-TTg, ngày 6-4-2016, “Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020”; Nghị quyết của Chính phủ số 120/NQ-CP, ngày 17-11-2017,“Về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu”… Những văn bản trên đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động liên kết vùng và định hình tư duy liên kết vùng thay cho tư duy khép kín, bó hẹp bởi phạm vi địa giới hành chính của các địa phương.
“Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016 - 2020” đã có tác dụng thúc đẩy các sáng kiến liên kết giữa các địa phương trong vùng. Một số ban điều phối vùng tiếp tục là cơ chế kết nối các địa phương trong hợp tác phát triển. Ngày 9-5-2018, các tỉnh, thành phố: An Giang, Kiên Giang, Cà Mau và Cần Thơ đã ký kết “Thỏa thuận hợp tác phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020” trên 11 lĩnh vực; các tỉnh: Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An đã thống nhất một số nội dung liên kết trong phát triển vùng Đồng Tháp Mười; các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh đã tổ chức hội thảo về chủ đề “Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng duyên hải phía đông đồng bằng sông Cửu Long”; Thành phố Hồ Chí Minh đã ký kết hợp tác về mặt nguyên tắc với 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL,… Đây là những tín hiệu tốt về sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động cụ thể trong liên kết sản xuất, liên kết vùng của chính quyền các địa phương trong vùng, tạo sự đồng thuận và ủng hộ thực hiện của doanh nghiệp, người dân.
Về bộ máy quản trị, với Quyết định số 2059/QĐ-TTg, ngày 24-11-2015, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc thành lập ban chỉ đạo, hội đồng vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015 - 2020”, cả 4 vùng kinh tế trọng điểm trong nước đã có một ban chỉ đạo chung do một Phó Thủ tướng làm trưởng ban và mỗi vùng kinh tế trọng điểm đã có 1 hội đồng vùng riêng. Theo đó, chủ tịch hội đồng vùng do chủ tịch ủy ban nhân dân một tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm luân phiên đảm nhận với nhiệm kỳ 2 năm. Chức năng, nhiệm vụ của ban chỉ đạo, hội đồng vùng kinh tế trọng điểm được thực hiện theo Quyết định số 941/QĐ-TTg, ngày 25-6-2015, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc thành lập tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015 - 2020”. Theo đó, Chủ tịch Hội đồng điều phối phát triển vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL đã thành lập các tổ điều phối giúp việc. Tuy nhiên, do thành viên ban chỉ đạo, hội đồng vùng kinh tế trọng điểm, tổ điều phối giúp việc đều là kiêm nhiệm, lại luân phiên nhiệm kỳ là 2 năm, nên thiếu tính ổn định. Theo thời gian, nhiều thành viên đã thay đổi vị trí công tác hoặc đã nghỉ hưu, nên bộ máy quản trị vùng chưa bảo đảm tính liên tục, hiệu quả hoạt động chưa như mong muốn.
Về nội dung, hình thức và quy mô liên kết các chủ thể sản xuất, kinh doanh. Gần đây, ở ĐBSCL xuất hiện một số mô hình liên kết theo chuỗi giá trị, mô hình logistics, mô hình liên kết dọc, liên kết ngang từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, mang lại hiệu quả rõ nét về kinh tế, xã hội, môi trường. Đó là những mô hình sản xuất quy mô lớn, theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững theo đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu. Cụ thể như: Tập đoàn Lộc Trời, Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đã liên kết với nông dân sản xuất hàng chục nghìn héc-ta lúa cùng giống, có chất lượng cao, có cùng quy trình sản xuất, chỉ dẫn nguồn địa lý, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, cung cấp gạo ra thị trường thế giới ổn định về chủng loại và chất lượng, được thị trường nhiều nước đánh giá cao. Tập đoàn Trung Sơn, Tập đoàn Việt Úc liên kết sản xuất ngành tôm với quy mô lớn, kỹ thuật nuôi hiện đại, sạch, năng suất và hiệu quả cao đã và đang phát huy lợi thế so sánh của vùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xanh, nhanh theo hướng hiện đại. Hợp tác xã Tân Hiệp Phát liên kết trồng chuối xuất khẩu ở các huyện Thới Lai, Cờ Đỏ của thành phố Cần Thơ. Mô hình “Vườn chuối triệu đô” của ông Võ Quan Huy - Công ty Huy Long An, Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Nhung Đồng Tháp nhờ liên kết chặt chẽ với nông dân đã đưa nhiều loại trái cây ở ĐBSCL đến với nhiều thị trường khó tính trên thế giới. Những mô hình liên kết này không chỉ góp phần nâng cao giá trị nông sản mà còn tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người dân nông thôn, giảm áp lực di dân về các đô thị lớn để tìm việc làm. Đó là những mô hình liên kết sản xuất theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, cần phát huy và nhân rộng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, liên kết vùng ĐBSCL cũng đã và đang bộc lộ một số hạn chế:
Nhận thức, tư duy về liên kết vùng của các cấp ủy, chính quyền địa phương trong vùng tuy đã được nâng nên nhưng vẫn chưa theo kịp nhu cầu đổi mới mạnh mẽ về mô hình phát triển dưới tác động của tiến trình hội nhập quốc tế, của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của nhiều địa phương cấp tỉnh còn mờ nhạt nội dung liên kết nội vùng; phần lớn chỉ dừng lại ở ý tưởng, chưa xác định rõ về nội dung, trách nhiệm, thời điểm thực thi cam kết của các bên tham gia, dẫn đến khó thực thi trong thực tiễn.
Thiếu chiến lược chung trong liên kết phát triển theo ngành cho toàn vùng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong đầu tư và thu hút đầu tư, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải hoặc trùng lắp, gây lãng phí nguồn lực, hiệu quả kinh tế - xã hội mang lại cho vùng chưa cao. Chẳng hạn, tỉnh Kiên Giang đầu tư xây dựng Nhà máy đường Bến Nhất, trong khi tỉnh Hậu Giang cạnh đó đã có ít nhất bốn nhà máy đường; việc “trải thảm đỏ” mời gọi đầu tư theo kiểu mạnh ai nấy làm, tỉnh nào cũng xây dựng khu công nghiệp, trường đại học cho riêng mình… Đây là những ví dụ điển hình cho thực trạng thiếu tư duy phối hợp nội vùng, thiếu liên kết trong đầu tư, thậm chí gây nên tình trạng cạnh tranh kém lành mạnh, cát cứ, làm ảnh hưởng đến lợi ích của từng địa phương và của toàn vùng.
Bộ máy quản trị và thể chế vùng tuy đã được thành lập nhưng vẫn còn thiếu những bộ phận, cán bộ chuyên trách; thiếu cơ sở dữ liệu cấp vùng để đánh giá, giám sát, dự báo và lập quy hoạch, kế hoạch của vùng; thể chế chưa đủ mạnh, chưa đủ sức hấp dẫn thúc đẩy các chủ thể, đối tác thực hiện liên kết vùng.
Nguyên nhân hạn chế, yếu kém là do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phần lớn vẫn thấp, quy mô nhỏ, làm ăn riêng lẻ, chưa nảy sinh nhu cầu liên kết sản xuất. Đây là nguyên nhân cơ bản và trực tiếp tác động đến liên kết sản xuất, liên kết vùng.
Công tác quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực, sự phân cấp giữa địa phương và Trung ương còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp chặt chẽ; các cơ chế điều phối phát triển vùng ĐBSCL chưa phát huy tác dụng. Việc triển khai thực hiện Quyết định số 593/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện “Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long” giai đoạn 2016 - 2020 còn chậm.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương chưa đồng bộ, tính khả thi chưa cao, thiếu tính liên kết toàn vùng, chưa gắn kết chặt chẽ với Thành phố Hồ Chí Minh, với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và tiểu vùng sông Mê Kông.
Việc huy động, sử dụng các nguồn lực cho đầu tư phát triển còn hạn chế. Tỷ lệ ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến của vùng thấp hơn mức bình quân chung của cả nước; chất lượng giáo dục, y tế cũng thấp so với yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao ở ĐBSCL đang có xu hướng dịch chuyển sang các địa phương khác, nhất là các đô thị lớn.
Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng ĐBSCL chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật; hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển liên kết vùng chưa đủ sức hấp dẫn. Bộ máy tổ chức quản trị vùng chỉ có chức năng tham mưu, giám sát trình Chính phủ quyết định, chưa đủ thực quyền ra quyết định. Cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ chính sách đối với cán bộ kiêm nhiệm làm việc trong ban chỉ đạo, hội đồng vùng, tổ giúp việc… còn nhiều bất cập.
Chính quyền các địa phương, các chủ thể liên kết còn khá lúng túng về nội dung, hình thức liên kết vùng; chưa kịp thời nhân rộng những mô hình liên kết sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường.
Những nguyên nhân trên đã và đang cản trở tiến trình liên kết vùng ở ĐBSCL. Trong đó, thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật dẫn đến tình trạng liên kết vùng còn lỏng lẻo, chưa thực chất được xem là một nguyên nhân chính yếu./.
(Còn tiếp)
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam  (21/04/2021)
Quản trị an ninh các phương tiện truyền thông xã hội vì sự phát triển bền vững đất nước  (15/04/2021)
Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu  (14/03/2021)
Cải tiến hoạt động chất vấn tại các kỳ họp hội đồng nhân dân ở các tỉnh, thành phố Vùng đồng bằng sông Cửu Long  (28/02/2021)
Ba chính sách trụ cột chính để phát huy nguồn lực văn hóa trong xây dựng Thủ đô sáng tạo  (22/02/2021)
An ninh nguồn nước và an toàn hồ đập: Tư duy, tầm nhìn, hành động mới  (02/01/2021)
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
- Kỷ nguyên số - Bối cảnh và cơ hội cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Nhận diện những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức chủ yếu của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX