TCCS - Trong bối cảnh tình hình kinh tế và quan hệ quốc tế trong 9 tháng qua của năm 2019, gắn với cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và các “điểm nóng” tranh chấp địa quân sự và chính trị trên thế giới còn diễn biến phức tạp, Việt Nam vẫn là quốc gia có nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh trong khu vực và trên thế giới, với những điểm sáng tích cực nổi bật, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Điểm sáng kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2019
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng đầu năm 2019 ước tính tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong 9 năm gần đây và cơ bản giữ được xu hướng tích cực là tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 6,82%; quý II tăng 6,73% và quý III tăng 7,31%). Tốc độ khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,36%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,37%, tạo động lực cho tăng trưởng chung của toàn ngành và toàn nền kinh tế. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục tăng trưởng khá, dù gặp khó khăn do hạn hán, biến đổi khí hậu và dịch tả lợn châu Phi, song đàn gia cầm vẫn tăng 10,5%. Tổng sản lượng thủy sản tăng 5,4% (nuôi trồng tăng 6,2% và khai thác tăng 4,5%). Đến nay, cả nước không còn dịch lở mồm long móng và dịch tai xanh trên lợn...
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng là giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Theo đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện chỉ chiếm tỷ trọng 13,2% GDP (so cùng kỳ năm 2018 là 13,94%); khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,98% (cùng kỳ là 33,5%); khu vực dịch vụ chiếm 42,74% (cùng kỳ là 42,51%).
Động lực tăng trưởng trong nước cũng được duy trì nhờ thị trường tiêu thụ được mở rộng, nguồn cung hàng hóa dồi dào, chất lượng được bảo đảm, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 3.634,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước.
Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động là hai chỉ số đo lường “sức khỏe” môi trường kinh doanh và tạo động lực tăng trưởng chính đến nền kinh tế đã ghi nhận mức kỷ lục mới, với gần 102,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 5,9% về số doanh nghiệp, tăng 34% về số vốn đăng ký và tăng 26,6% về vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới (đạt 12,6 tỷ đồng, mức cao nhất trong những năm trở lại đây). Điều này cũng cho thấy “sức khỏe” tốt hơn của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường. Tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế từ các doanh nghiệp mới và doanh nghiệp bổ sung vốn là 3.021,2 nghìn tỷ đồng. Đồng thời, cả nước còn có 27,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường tài chính - tiền tệ ổn định, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 9 tháng tăng 2,5%, đây là mức tăng bình quân 9 tháng thấp nhất trong ba năm gần đây. Huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 8,68%; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế tăng 8,4% và tổng phương tiện thanh toán tăng 8,44%. Tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 72,9% dự toán năm. Tổng chi ước tính đạt 58,9% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên là 69,2%; chi đầu tư phát triển là 40,6%; chi trả nợ lãi là 63%. Đáng chú ý là tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt 624,6 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn nhất (45,3%) tổng vốn đầu tư và đạt tốc độ tăng vốn cao nhất (16,9%) so với cùng kỳ năm trước; vốn khu vực nhà nước đạt 426,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 31% và tăng 3% (mức tăng thấp nhất trong các năm giai đoạn 2015 - 2019); khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 327,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,7% và tăng 8,4%. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư đã khẳng định sự đúng đắn và hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
Vốn FDI được tiếp tục cải thiện cả về số dự án mới lẫn vốn thực hiện, với 2.759 dự án FDI mới, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm đạt 15.763,2 triệu USD (giảm 19,9%) và FDI thực hiện ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%. Đặc biệt, có 6.502 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 10,4 tỷ USD, tăng 82,3% so với cùng kỳ năm 2018.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 382,72 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 194,3 tỷ USD, tăng 8,2% và xuất siêu 5,9 tỷ USD. Khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu đạt 59,57 tỷ USD, tăng 16,4% và chiếm 30,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; có 26 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 89,8% tổng kim ngạch xuất khẩu và có 32 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 88,8% tổng kim ngạch nhập khẩu. Đây là kết quả khả quan trong bối cảnh Việt Nam cam kết tuân thủ lộ trình mở cửa hội nhập và ngoại thương thế giới tăng chậm lại.
Các vấn đề xã hội tiếp tục được cải thiện, với số người có việc làm tăng, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm dần (tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước là 1,99%). Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
Triển vọng, nhiệm vụ và giải pháp thúc đẩy kinh tế phát triển đạt mục tiêu đã đề ra của năm 2019
Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội năm 2019 tiếp tục chuyển biến tích cực, dự kiến 12 chỉ tiêu chủ yếu của năm 2019 đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Trong Báo cáo cập nhật Triển vọng Phát triển châu Á (ADO) năm 2019 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 25-9-2019, nền kinh tế Việt Nam được dự báo duy trì tăng trưởng mạnh trong năm 2019 và 2020 ở mức tương ứng là 6,8% và 6,7%, sau khi đã bứt phá mạnh với tỷ lệ 7,1% trong năm 2018; lạm phát được điều chỉnh giảm từ 3,5% xuống còn 3% trong năm 2019 và từ 3,8% xuống còn 3,5% cho năm 2020…
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế về giải ngân vốn đầu tư công; cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và tiến độ một số dự án năng lượng, kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm; sản xuất nông nghiệp và sản xuất, kinh doanh ở một số ngành, lĩnh vực gặp khó khăn. Tình trạng xuống cấp đạo đức xã hội, bạo lực, văn hóa ứng xử ở một số nơi chậm được khắc phục. Tình hình an ninh, trật tự, hỏa hoạn, tai nạn giao thông trên một số địa bàn còn diễn biến phức tạp.
Trong những tháng cuối năm 2019, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển đạt mục tiêu đã đề ra, các cấp, các ngành cần thường xuyên theo dõi, phân tích, đánh giá tình hình trong nước và thế giới để kịp thời có đối sách hiệu quả, phù hợp, tránh để bị động, bất ngờ, cụ thể:
Thứ nhất, nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu là tiếp tục cải cách mạnh mẽ, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi phục vụ người dân, doanh nghiệp và thu hút các nguồn lực bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững…
Thứ hai, tập trung chỉ đạo quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2019 đã được giao; đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn theo các quyết định đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Rà soát, điều chỉnh, lập mới quy hoạch phát triển các ngành để tránh đầu tư trùng lặp, lãng phí và không hiệu quả.
Thứ ba, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt; điều hành tỷ giá phù hợp. Tập trung vốn tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình, góp phần hạn chế "tín dụng đen". Đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu; triển khai sơ kết hai năm triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14, ngày 15-7-2017, của Quốc hội, về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Quyết định số 1058/QĐ-TTg, ngày 19-7-2017, của Thủ tướng Chính phủ, về cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020. Giám sát, cảnh báo, ngăn ngừa các rủi ro về hoạt động mua, bán trái phiếu doanh nghiệp và cấp tín dụng cho khách hàng để đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng. Bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán điện tử, đẩy mạnh phòng, chống rửa tiền. Siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách nhà nước; tăng cường thanh tra, kiểm tra và bảo đảm công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách nhà nước. Thực hành chống lãng phí, tiết kiệm chi thường xuyên; không chi những nhiệm vụ chưa cần thiết. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra thuế, có biện pháp hiệu quả chống thất thu đối với các hoạt động chuyển giá, buôn lậu, gian lận thương mại; thu hồi nợ đọng thuế.
Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác thống kê, phân tích, dự báo để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành. Xây dựng, ban hành khung khổ thử nghiệm chính sách mới cho việc triển khai và ứng dụng các công nghệ mới trong mô hình kinh tế chia sẻ; đẩy mạnh xúc tiến thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia; xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 50/NQ -TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị, về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; chủ động thu hút, đón đầu làn sóng đầu tư mới, nhất là các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới. Tăng cường phối hợp triển khai các nội dung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch các mặt hàng Việt Nam có lợi thế. Thường xuyên theo dõi sát tình hình thị trường, chủ động có biện pháp ngăn chặn các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt là gian lận thương mại, xuất xứ hàng hóa để bảo vệ sản xuất trong nước. Kịp thời chỉ đạo công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng và phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Đẩy nhanh tiến độ triển khai hệ thống thu phí điện tử tự động trên toàn quốc. Tiếp tục tháo gỡ những hạn chế, bất cập trong phát triển du lịch; tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, nâng cao chất lượng quản lý, kinh doanh dịch vụ du lịch, bảo đảm an ninh, an toàn cho khách du lịch, bảo đảm phát triển du lịch bền vững. Triển khai Chương trình hành động thực hiện các nghị quyết của Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách tiền lương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững; làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh; tăng cường y tế cơ sở, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu công nghệ lạc hậu; nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là ngăn chặn rác thải nhựa; bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia; chủ động ứng phó, xử lý chặt chẽ, kịp thời, có hiệu quả các vấn đề trên biển, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở các đợt cao điểm đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm hình sự, tội phạm công nghệ cao; chấn chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ; bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, an ninh, an toàn thông tin mạng; tăng cường thông tin, định hướng dư luận, kịp thời đấu tranh, phản bác với luận điệu sai trái, tạo sự đồng thuận, niềm tin trong xã hội./.
Nhìn lại ba năm thực hiện quản lý thu - chi ngân sách thành phố Hà Nội  (23/10/2019)
Nhận thức và ứng xử đúng quy luật với vấn đề bóc lột trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  (22/10/2019)
Thành phố Hà Nội thực hiện kiểm soát chi và hợp lý hóa cơ cấu chi để giảm chi thường xuyên trong ngân sách thành phố  (13/10/2019)
Ngành Hải quan Hà Nội đẩy mạnh thu ngân sách  (02/10/2019)
Hà Nội cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh  (27/09/2019)
Hà Nội cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh  (27/09/2019)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển