Sáu mươi lăm năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc
TCCS - Ngày 18-01-1950, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự kiện lịch sử đó thể hiện quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt trong quá trình đấu tranh chống đế quốc, phong kiến dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, để nhân dân hai nước phát huy tình đoàn kết chiến đấu, hợp tác hữu nghị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những chặng đường phát triển
Sáu mươi lăm năm trôi qua kể từ khi Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (1950 - 2015), quan hệ hữu nghị giữa hai nước đã có những bước phát triển và thu được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng đồng thời cũng trải qua những bước thăng trầm và đang đứng trước những vấn đề, thử thách đòi hỏi hai bên phải cùng nhau giải quyết một cách tích cực và thực chất để vượt qua. Kỷ niệm 65 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc, nhìn lại quá khứ, suy ngẫm những bài học lịch sử, giải quyết các vấn đề hiện nay, là hành động thiết thực để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn khi tình hình thế giới và khu vực ngày càng có những biến đổi sâu sắc và nhanh chóng, quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc cũng đứng trước những thời cơ và thử thách mới.
Từ năm 1950 đến 1975, Việt Nam tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, chiến đấu vì hòa bình và lương tri của nhân loại. Đối với Trung Quốc, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã góp phần vào việc củng cố tuyến phòng vệ an ninh biên giới phía Nam của Trung Quốc. Nhân dân Việt Nam thấm nhuần tinh thần quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tri ân sự đồng tình và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc trong suốt thời kỳ diễn ra hai cuộc kháng chiến cứu nước, giành độc lập dân tộc.
Từ năm 1976 đến 1990, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chuyển sang thời kỳ căng thẳng, đỉnh cao là cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc vào các tỉnh dọc biên giới phía Bắc Việt Nam từ ngày 17-02-1979. Xung đột quân sự quy mô lớn diễn ra trong vòng một tháng, nhưng tình hình căng thẳng trên tuyến biên giới và trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc nói chung kéo dài hơn 10 năm, gây tổn thất không đáng có cho nhân dân hai nước, nhất là cho nhân dân sống dọc biên giới hai nước.
Theo thỏa thuận đạt được trong cuộc gặp cấp cao tại Thành Đô (Trung Quốc) vào năm 1990, cuối năm 1991, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chính thức được bình thường hóa với việc hai bên cam kết “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Từ đó tới nay, một phần tư thế kỷ đã trôi qua, với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc và quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa hai đảng cộng sản trong quá trình cách mạng, quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước đã được triển khai rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực:
Về chính trị, hằng năm lãnh đạo cấp cao hai nước thường xuyên tiến hành các cuộc thăm và làm việc để trao đổi những vấn đề trọng đại trong quan hệ giữa hai nước. Hầu hết các bộ, ngành ở Trung ương và nhiều địa phương trong các tỉnh, thành của hai nước đã có những liên kết hợp tác trên các lĩnh vực hữu quan. Hai bên đã giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong công cuộc cải cách, mở cửa, đổi mới, hiện đại hóa đất nước. Giới lý luận của hai Đảng đã tiến hành các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm và lý luận về các chủ đề quan trọng liên quan tới chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1999, lãnh đạo hai nước đã xác định phương châm 16 chữ “láng giềng thân thiện, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Sau đó bổ sung tinh thần “bốn tốt”: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Bước sang thế kỷ XXI, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc được lãnh đạo hai nước định vị là “quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”.
Về kinh tế - thương mại, kim ngạch thương mại Việt Nam - Trung Quốc tăng lên nhanh chóng, từ 691 triệu USD (năm 1995) lên 2,93 tỷ USD (năm 2000). Bước sang thế kỷ XXI, kim ngạch thương mại giữa hai nước đã tăng lên 49,2 tỷ USD vào năm 2013, riêng trong năm 2014 tính đến hết tháng 10 đã đạt 48,1 tỷ USD. Hiện nay, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Tính đến tháng 10-2014, đã có 1.073 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 7,9 tỷ USD (đứng thứ chín trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ là chủ đầu tư vào Việt Nam). Hợp tác kinh tế - thương mại đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân của hai nước, nhất là đối với cư dân vùng ven biên giới.
Với phương châm và tinh thần hợp tác hữu nghị, quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung Quốc trong các lĩnh vực văn hóa - giáo dục, an ninh - quốc phòng, khoa học - kỹ thuật, y tế, thể dục thể thao,... cũng đạt nhiều thành quả đáng ghi nhận. Tiến triển quan trọng trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua là việc ký kết “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa” (năm 1999); “Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa”; “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHND Trung Hoa” (năm 2000). Việc ký kết và thực thi các hiệp định đã tạo điều kiện để nhân dân hai nước xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài.
Ngày 25-12-2000, lãnh đạo hai nước đã ra “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa”. Bước sang thế kỷ XXI, quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung Quốc đã có những bước phát triển mới trong một số lĩnh vực, nhất là về kinh tế - thương mại, nhưng đồng thời cũng đã xuất hiện những khó khăn, trở ngại mới. Kim ngạch thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong hơn một thập niên đầu thế kỷ XXI tăng lên rất nhanh, tuy nhiên nhập siêu của Việt Nam lại rơi vào tình trạng nghiêm trọng, nếu không có giải pháp vãn hồi hữu hiệu, có thể sẽ làm cho quan hệ thương mại giữa hai nước trở nên không bền vững.
Tình hình trên Biển Đông trong những năm qua cũng ngày càng trở nên phức tạp và căng thẳng, đỉnh cao là sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 7-2014, gây lo ngại trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và dư luận quốc tế. Sự việc đã trôi qua và hai bên đang cùng nhau cố gắng ổn định lại tình hình, nhưng đó là bài học để lại cần suy ngẫm.
Nhìn lại chặng đường 65 năm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, có thể suy ngẫm về những bài học lịch sử: 1- Quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc có tầm quan trọng đặc biệt, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển của cục diện quốc tế và khu vực. 2- Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc tác động quan trọng đến quá trình phát triển của hai nước trong thời gian qua và còn nhiều tiềm năng để phát huy trong thời gian tới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa...
Hướng tới tương lai
Để quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc được duy trì, phát triển thực chất và bền vững đòi hỏi hai bên phát huy những điểm tương đồng, giải quyết những vấn đề bất đồng trên tinh thần hữu nghị và tôn trọng lợi ích của nhau, thực hiện những cam kết bằng hành động cụ thể nhằm củng cố và tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau.
Tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông đang là vấn đề quan trọng hàng đầu tác động tới quan hệ Việt Nam - Trung Quốc nói chung. Giải quyết thỏa đáng vấn đề này sẽ tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc phát triển và ổn định lâu dài.
Hiện nay, cục diện thế giới và quan hệ quốc tế, tình hình khu vực và tình hình trong nước Việt Nam, Trung Quốc, cũng như quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đang có những biến chuyển mới. Trong bối cảnh mới này, hai bên cần có những điều chỉnh thích hợp để tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước.
Sau một thời gian, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bị tác động bởi sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, qua chuyến thăm Trung Quốc của đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo hai bên đã trao đổi thẳng thắn về một số vấn đề trong quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, thỏa thuận về ba nội dung quan trọng nhằm chỉ đạo phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước trong thời gian tới. Một là, lãnh đạo hai Đảng, hai nước Việt Nam và Trung Quốc tăng cường hơn nữa việc chỉ đạo trực tiếp đối với quan hệ hai Đảng, hai nước, thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không ngừng phát triển lành mạnh, ổn định. Hai là, hai bên tăng cường giao lưu giữa hai Đảng, hai nước; khôi phục và tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế - thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn. Ba là, hai bên thỏa thuận tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; nghiêm chỉnh thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa”; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ hai nước; tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và hòa bình, ổn định trên Biển Đông(1).
Để phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc một cách thực chất và bền vững, hai bên còn nhiều việc phải làm trong thời gian tới. Trong đó, có hai vấn đề quan trọng cần giải quyết tốt, đó là bảo đảm hòa bình, ổn định trên Biển Đông và hợp tác kinh tế - thương mại đạt hiệu quả thực chất và bền vững.
Tháng 10-2011, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã đi tới “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa”, trong đó có ba nội dung quan trọng là “thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị”; “căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và “nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận những nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được”(2). Đó cũng là con đường duy nhất để giải quyết một cách hòa bình vấn đề tranh chấp trên Biển Đông trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Thực hiện những nhận thức chung và cam kết giữa lãnh đạo hai nước đòi hỏi lời nói phải đi đôi với việc làm, mọi hành động làm thay đổi nguyên trạng hoặc sử dụng, đe dọa sử dụng vũ lực chỉ làm phức tạp thêm tình hình, gây trở ngại cho tiến trình giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp trên biển giữa hai nước.
Trong quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, thời gian tới cũng cần có sự điều chỉnh để có thể duy trì và phát triển một cách thực chất, bền vững. Về thương mại, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng lên rất nhanh trong thời gian qua, tuy nhiên nhập siêu của Việt Nam tăng với tốc độ nhanh gấp bội, từ 600 triệu USD lên 24,6 tỷ USD, có thể lên tới 27 tỷ USD trong năm 2014.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này. Một mặt, do sự không đối xứng về tiềm lực và trình độ phát triển của hai nền kinh tế. Mặt khác, do hậu quả của kết cấu các mặt hàng: Việt Nam xuất sang Trung Quốc phần lớn các mặt hàng sơ chế có giá trị gia tăng thấp, trong khi nhập từ Trung Quốc các mặt hàng chế tạo hoặc sản phẩm trung gian có giá trị gia tăng cao, trong đó có những mặt hàng nhập theo yêu cầu của các dự án Trung Quốc đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và các mặt hàng công nghiệp phụ trợ, các mặt hàng tiêu dùng mà Việt Nam có thể tự sản xuất.
Với 1.073 dự án có tổng số vốn đăng ký là 7,9 tỷ USD, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tương đối mạnh vào phát triển kinh tế và cải thiện đời sống dân cư của Việt Nam. Thế nhưng, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam cũng bộc lộ những hạn chế về trình độ công nghệ, cơ cấu đầu tư, trách nhiệm xã hội... Trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh “đầu tư ra nước ngoài” (năm 2014, lần đầu tiên tổng số vốn Trung Quốc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vượt tổng số vốn nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc). Trong khi đó, Việt Nam sẽ triển khai hoạt động kinh tế đối ngoại phù hợp với những quy định của “Cộng đồng ASEAN” theo lộ trình được thành lập vào cuối năm 2015, phù hợp với những quy định của Hiệp định Tự do thương mại Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU), Hiệp định Tự do thương mại Việt Nam - Hàn Quốc, Hiệp định Tự do thương mại Việt Nam - Liên minh Hải quan (gồm Nga, Ca-dắc-xtan, Bê-la-rút) và Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) có khả năng ký kết trong năm 2015. Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần có sự điều chỉnh đúng hướng, kịp thời, hiệu quả trong quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc nói riêng, nhằm mục tiêu duy trì và phát triển quan hệ này một cách thực chất, bền vững, đáp ứng lợi ích và sự phát triển của cả hai bên.
Năm 2015, kỷ niệm 65 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc, chúng ta lại nhớ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đã cùng các bậc tiền bối cách mạng Việt Nam và Trung Quốc vun đắp quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Người căn dặn nhân dân Việt Nam và cũng là nhắn nhủ nhân dân Trung Quốc: “Trong lịch sử, nhân dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã sớm có một mối tình hữu nghị lâu đời và sâu sắc... Tình hữu nghị và quan hệ mật thiết giữa nhân dân hai nước chúng ta thật lâu dài, bền vững, không gì lay chuyển nổi và không ai có thể chia rẽ, ngăn trở được”(3). “Mong rằng anh, em hai nước đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo nguyên tắc hợp pháp, hợp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc. Trước đây, nếu có chỗ hiểu lầm hoặc bất hòa thì cũng mong từ nay về sau mỗi bên đều vứt bỏ thành kiến mà chân thành hợp tác thân thiện với nhau”(4)./.
---------------------------------------
(1) Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 10-2014, tr. 87
(2) “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, ký tại Bắc Kinh (Trung Quốc), ngày 11-10-2010
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 6 - 7
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 4, tr. 14
Đối thoại quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ lần thứ 9 tại New Delhi  (16/01/2015)
Ngành kiểm sát cần đổi mới mạnh mẽ và toàn diện  (16/01/2015)
Nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới  (16/01/2015)
Nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới  (16/01/2015)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên