Vì sao lại hiến định: nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?
22:12, ngày 05-02-2014
TCCSĐT - Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gọi là thời kỳ quá độ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa phương thức sản xuất cũ và phương thức sản xuất mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đi từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao bằng những cuộc biến đổi cách mạng từ một phương thức sản xuất này lên một phương thức sản xuất khác tiến bộ hơn. Đó là kết quả tất yếu từ sự phát triển của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất không ngừng phát triển với quan hệ sản xuất lạc hậu. Nhưng không phải phương thức sản xuất cũ đi đến chỗ kết thúc là có ngay phương thức sản xuất mới cao hơn; cũng không phải phương thức sản xuất cũ kết thúc hoàn toàn rồi mới nảy sinh phương thức sản xuất khác, mà giữa chúng bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ, trong đó phương thức sản xuất cũ suy yếu dần, phương thức sản xuất mới ra đời, lớn lên và tiến tới giữ địa vị thống trị. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế là nền kinh tế quá độ. Đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần.
Trong tác phẩm Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính tiểu tư sản viết tháng 5-1918, V.I. Lê-nin cho rằng: nền kinh tế trong thời kỳ quá độ mang “tính chất quá độ”. Người viết: “Có lẽ, không một người nào khi nghiên cứu vấn đề kinh tế của nước Nga lại phủ nhận tính chất quá độ của nền kinh tế ấy. Có lẽ cũng không có người cộng sản nào lại phủ nhận điều sau đây: danh từ nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chính quyền Xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội chủ nghĩa”(1). Đến tác phẩm Bàn về thuế lương thực viết tháng 4-1921, V.I. Lê-nin gọi nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế quá độ”(2). Khái niệm “nền kinh tế quá độ” phản ánh đầy đủ mặt lượng và mặt chất của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tức là phản ánh đúng tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế này.
Nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có sự tồn tại đan xen của nhiều kết cấu kinh tế - xã hội: kết cấu kinh tế - xã hội cũ đang suy thoái dần và kết cấu kinh tế - xã hội mới đã phát sinh, đang phát triển dần từng bước. V.I. Lê-nin viết: “Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có”(3). Điều đó có nghĩa là trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa có phương thức sản xuất nào tồn tại cả, mà chỉ có nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần. Sự cùng tồn tại của các thành phần kinh tế trong phạm vi một nền kinh tế xã hội được gọi là tính nhiều thành phần của nền kinh tế. Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vì thời kỳ quá độ là thời kỳ giáp ranh, chuyển tiếp từ sự thống trị của phương thức sản xuất cũ sang sự thống trị của phương thức sản xuất mới cao hơn. Chính vì vậy mà trong nền kinh tế quá độ, các thành phần kinh tế đều không nguyên dạng, ít nhiều có những tính chất mới. Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác chưa thể hiện đầy đủ tính chất xã hội chủ nghĩa. Còn kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể không còn giữ nguyên bản chất riêng của mình giống như nó trong xã hội cũ, vì chúng phải chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương: thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; phát triển và nâng cao hiệu quả của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân (4). Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013, khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”(5). Điều đó là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn nước ta.
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bình đẳng trước pháp luật. Trong quá trình vận động, phát triển các thành phần kinh tế phải được cải biến dựa vào những tiền đề khách quan:
Thứ nhất, xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và yêu cầu xã hội hóa sản xuất trên thực tế.
Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù hợp.
Thứ ba, xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế.
Vấn đề không phải là xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vững bản chất, vai trò của từng thành phần và sử dụng chúng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Mỗi thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật hoạt động riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất, có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tại và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp khả năng tái sản xuất quy định vai trò và triển vọng của mỗi thành phần kinh tế trong nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối quan hệ và tác động qua lại, đan xen. Để bảo đảm nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình vận động vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng cho nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, như đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của Nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là, hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia). Thành phần kinh tế không chỉ bao hàm giác độ sở hữu mà còn bao hàm sức mạnh tổ chức, sức mạnh hợp tác của các tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước không chỉ bao hàm doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của Nhà nước, bao hàm sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Quan niệm như vậy về thành phần kinh tế nhà nước mang tính tổng hợp hơn so với quan niệm truyền thống.
Kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, kinh tế nhà nước chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện về tư liệu sản xuất, vốn..., là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hóa của lực lượng sản xuất. Ở đây, cần phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân.
Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân; là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng cách gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước và tự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
Thứ sáu, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn, nhưng đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lại chậm…
Thứ bảy, thời gian qua có một số doanh nghiệp nhà nước, một số tập đoàn, tổng công ty làm thất thoát một lượng tài sản lớn của đất nước, của dân. Điều đó không phải là lỗi vốn có của bản thân doanh nghiệp nhà nước, càng không phải lỗi của thành phần kinh tế nhà nước, mà đó là hệ quả của sự yếu kém kéo dài trong quản lý kinh tế cả ở cấp vĩ mô và vi mô. Nếu khắc phục được sự yếu kém này và đưa kinh tế nhà nước trở lại đúng vị trí của nó trong nền kinh tế, thì tình hình đã khác.
Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(6). Mặc dù khẳng định lại quan điểm của các đại hội trước, nhưng Đại hội X cũng làm rõ nội hàm của khái niệm chủ đạo: một là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân; hai là, kinh tế nhà nước là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của kinh tế nhà nước là để tạo môi trường chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho doanh nghiệp nhà nước; bốn là, khẳng định lại một lần nữa kinh tế nhà nước rộng hơn doanh nghiệp nhà nước, hay nói cách khác, doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thông qua, khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”(7). Đảng ta cam kết chỉ đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới trong quan điểm của Đảng ta về kinh tế nhiều thành phần. Hơn nữa, Đảng chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch và cạnh tranh thực sự, xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, buộc doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại. Nói cách khác, Đảng quán triệt quan điểm doanh nghiệp nhà nước chỉ nên tồn tại ở những nơi nó có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân, có nghĩa là tính ưu việt của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải được chứng minh trong môi trường bình đẳng với các quan hệ sản xuất khác. Đại hội XI của Đảng cũng nêu rõ các điều kiện để doanh nghiệp nhà nước có thể phát huy ưu thế của mình, đó là doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tài sản, được thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo nguyên tắc thị trường và pháp luật, tạo cơ chế gắn trách nhiệm và lợi ích của cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước…
Đảng ta đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong môi trường thị trường thống nhất, đồng bộ, cạnh tranh đầy đủ và hội nhập quốc tế. Có nghĩa là kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng phải thích nghi và buộc phải hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường đầy đủ, chấp nhận “luật chơi” của các tổ chức kinh tế quốc tế, chấp nhận cạnh tranh trong điều kiện bảo hộ của Nhà nước giảm đến mức tối thiểu: “Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình”(8). Quan điểm chỉ đạo kiên quyết này đặt ra cho quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp những yêu cầu mới: một là, Nhà nước phải chủ động thay thế những phương thức hành động không phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế bằng các phương thức phù hợp và có hiệu quả hơn. Để làm được như vậy, Nhà nước phải có tiềm lực tài chính lớn, có nghĩa là vai trò của kinh tế nhà nước không giảm đi, ngược lại có thể tăng lên; hai là, doanh nghiệp nhà nước phải được tái cơ cấu nhanh và chuyển sang các hình thức hoạt động hiệu quả để có thể tồn tại và đem lại cho Nhà nước một công cụ định hướng, điều tiết tốt. Để làm được như vậy, Đảng ta chỉ rõ, phải “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Sớm hoàn thiện thể chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”(9); ba là, bộ máy nhà nước phải thích ứng với vai trò mới theo hướng:
- Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô, như định hướng bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường để các chủ thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô…
- Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế;
- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp;
- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ quản”;
- Tách hệ thống hành chính khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp.
Tóm lại, quan điểm của Đảng ta về kinh tế nhà nước vừa là sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải thích rõ hơn các nội dung liên quan đến kinh tế nhà nước, như mối quan hệ của nó với thành phần kinh tế khác; kết cấu của kinh tế nhà nước; vai trò và nội dung chủ đạo của kinh tế nhà nước; phương thức hoạt động của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập và quan hệ giữa nhà nước kinh tế và nhà nước chính trị… Những điểm phát triển này tạo cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các đảng viên, nhất là các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo, quản lý trong thành phần kinh tế nhà nước. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra nhiều yêu cầu đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện về lý luận.
Củng cố, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Để kinh tế nhà nước có thể thực hiện được vai trò chủ đạo, chi phối trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó có một số biện pháp chủ yếu sau:
Một là, tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu; những cơ sở sản xuất thương mại, dịch vụ quan trọng; một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng, an ninh… Nhà nước chỉ nên nắm một số không nhiều “những đài chỉ huy” trong nền kinh tế, tức là những vị trí kinh tế then chốt, yết hầu, thông qua đó mà điều tiết, chi phối, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất của toàn dân bằng cách lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp.
Ba là, đổi mới, dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại và phát huy ưu thế về kỹ thuật tiến bộ nhất; liên kết, liên doanh với các thành phần kinh tế khác nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Bốn là, thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần thuộc sở hữu nhà nước là cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Để có quyền chi phối, Nhà nước phải nắm trên nửa số cổ phần của doanh nghiệp, hoặc cổ phần của Nhà nước ít nhất cũng phải gấp đôi số cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp. Cổ phần đặc biệt là cổ phần có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thỏa thuận trong điều lệ doanh nghiệp. Để thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp, Nhà nước có thể bán cổ phần cho cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp; có thể vừa bán cho lao động trong doanh nghiệp, vừa bán cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp; cũng có thể giữ nguyên tài sản của Nhà nước, chỉ phát hành một số cổ phiếu để tăng vốn cho cơ sở sản xuất đã có hay cho phân xưởng mới thành lập; hoặc cũng có thể gọi cổ phần ngay từ đầu khi mới thành lập.
Đối với những doanh nghiệp xét thấy không cần thiết hoặc thua lỗ kéo dài, không có khả năng vươn lên, thì chuyển sang hình thức sở hữu khác, cho thuê, bán khoán hoặc giải thể.
Ở đây, cần tránh hai khuynh hướng sai lầm: hoặc coi nhẹ doanh nghiệp nhà nước, muốn tư nhân hóa tràn lan; hoặc bảo thủ, muốn duy trì toàn bộ doanh nghiệp nhà nước, không muốn tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Việc giảm bớt số lượng doanh nghiệp nhà nước không có nghĩa là giảm sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp nhà nước. Giải thể những doanh nghiệp nhà nước không cần thiết để tập trung cho những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho quốc kế dân sinh, điều đó nhất định sẽ giúp nâng cao vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước trên nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm cho kinh tế nhà nước thật sự là chủ đạo, là lực lượng nòng cốt bảo đảm cân đối vĩ mô, tạo điều kiện ổn định kinh tế - xã hội trong quá trình đổi mới. Thực tế những năm qua ở nước ta đã cho thấy, mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm, nhưng phần đóng góp của doanh nghiệp nhà nước trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ngày càng tăng.
Năm là, để nâng cao tính hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước xứng đáng là bộ khung trong hệ thống các doanh nghiệp của toàn bộ nền kinh tế, cần nâng cao tính hạch toán, tính chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Để cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cần đánh giá toàn diện khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Đối với những trường hợp lợi nhuận cao là do sự độc quyền của doanh nghiệp, do chính sách kinh tế ưu đãi của Nhà nước, thì dứt khoát phải có sự điều tiết thích hợp.
Nhìn một cách tổng quát, bảo toàn vốn và có lãi là nguyên tắc quan trọng nhất, đồng thời là mục tiêu cơ bản nhất để quản lý doanh nghiệp nhà nước, tạo cơ sở vững chắc cho Nhà nước thực hiện đúng các định hướng vĩ mô. Vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thông qua các phương pháp, công cụ kinh tế nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải phù hợp với các nhiệm vụ phát triển kinh tế của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô. Lĩnh vực quan trọng mà doanh nghiệp nhà nước phải giữ vai trò nòng cốt là ổn định thị trường, thực hiện nghiêm túc các mục tiêu chính trị, xã hội.
Sáu là, thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Mục tiêu của tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là góp phần thay đổi cơ cấu quản lý và phân bổ nguồn lực quốc gia, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp nói riêng và của cả hệ thống doanh nghiệp nhà nước nói chung, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện tốt hơn vai trò, chức năng trong nền kinh tế tương xứng với nguồn lực và nhiệm vụ được giao.
- Xác định và phân định rõ vai trò, chức năng của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, trên cơ sở đó, các doanh nghiệp nhà nước được phân loại để áp dụng cơ chế quản lý, giám sát và đánh giá phù hợp. Doanh nghiệp nhà nước được phân chia và phân biệt thành bốn nhóm sau đây: Nhóm 1: Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công ích, thực hiện nhiệm vụ an ninh, quốc phòng; Nhóm 2: Các doanh nghiệp là công cụ, lực lượng vật chất để Nhà nước can thiệp, điều tiết thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các loại dự trữ quốc gia khác; Nhóm 3: Các doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ phát triển quốc gia trên các lĩnh vực, ngành nghề mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không làm hoặc chưa làm được; Nhóm 4: Các doanh nghiệp còn lại. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế quản lý, giám sát và đánh giá đặc thù riêng đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm 1, 2 và 3; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp còn lại.
- Áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế đối với doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn và doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước:
+ Tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước và chức năng giám sát độc quyền trong kinh doanh của các cơ quan hành chính nhà nước; đồng thời, thiết lập cơ quan đầu mối chuyên trách thực hiện đầy đủ tất cả các quyền sở hữu nhà nước; chịu trách nhiệm giám sát, tổng hợp, theo dõi và đánh giá kết quả hoạt động, cơ cấu và hiệu quả sử dụng tài sản, thực trạng bảo toàn và phát triển vốn ở từng doanh nghiệp nói riêng và khu vực doanh nghiệp nhà nước nói chung.
+ Hoàn thiện các quy chế quản trị nội bộ tập đoàn/tổng công ty theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, bao gồm: Quy chế người ủy quyền thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước; Quy chế hoạt động của hội đồng thành viên hoặc hội đồng quản trị và ban kiểm soát; Quy chế làm việc của ban giám đốc; các quy trình quản lý, như quy trình mua sắm và quản lý tài sản cố định, quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ, quy trình tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ,...
+ Đổi mới cơ chế tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ quản lý chủ chốt của tập đoàn, tổng công ty; sắp xếp, bố trí lại cán bộ, nhất là các cán bộ quản lý chủ chốt; chủ động quy hoạch, đào tạo, đãi ngộ và bố trí hợp lý cán bộ quản lý bảo đảm thực hiện được mục tiêu chiến lược và phát triển ổn định lâu dài của tập đoàn, tổng công ty.
+ Thực hiện công khai và minh bạch hóa thông tin đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tập đoàn, tổng công ty phải công bố công khai các thông tin sau: Sứ mệnh và các mục tiêu cụ thể hằng năm; Báo cáo tài chính hợp nhất có kiểm toán của tập đoàn, tổng công ty và báo cáo tài chính hằng năm có kiểm toán của các công ty con; Các quyết định của cơ quan chủ sở hữu, các nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị hay hội đồng thành viên và biên bản các cuộc họp tương ứng; Danh mục các dự án đầu tư và tiến độ thực hiện các dự án đầu tư hiện hành; Các giao dịch có quy mô lớn, khoản vay hay cho vay lớn và các giao dịch bất thường khác; Thông tin về các bên có liên quan, và về các giao dịch với bên có liên quan; Thông tin về nhân thân, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, các vị trí quản lý đã nắm giữ, cách thức được bổ nhiệm, công việc quản lý được giao, cách thức trả lương và các lợi ích khác của những cán bộ chủ chốt, thông tin về những người có liên quan và ích lợi có liên quan của họ với công ty, bản tự kiểm điểm, đánh giá hằng năm của họ trên cương vị là người quản lý doanh nghiệp,...
- Thực hiện tái cơ cấu toàn diện các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trên các mặt: sứ mệnh và chiến lược phát triển, ngành nghề kinh doanh và sản phẩm chủ yếu, tài chính và nhân sự, quản trị và quản lý nội bộ,... Cụ thể là:
+ Các tập đoàn, tổng công ty phải xác định cụ thể sứ mệnh; xây dựng, bổ sung sửa đổi chiến lược phát triển và các chỉ tiêu đo lường kết quả thực hiện mục tiêu chiến lược tương ứng; xác định các ngành nghề kinh doanh chính và các ngành nghề hỗ trợ liên quan. Tập trung đầu tư, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý để phát triển các ngành nghề kinh doanh chính bảo đảm các tập đoàn, tổng công ty trở thành doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và có năng lực cạnh tranh hàng đầu trong các ngành, lĩnh vực có liên quan.
+ Đối với các ngành kinh doanh không liên quan, nhất là ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, thì các tập đoàn, tổng công ty phải hoàn thành thoái vốn trước năm 2015 bằng các giải pháp thích hợp, như: Một là, bán toàn bộ cổ phần, phần vốn góp của công ty mẹ - tập đoàn/tổng công ty cho các tổ chức, cá nhân ngoài tập đoàn/tổng công ty; không được bán hoặc chuyển giao trong nội bộ tập đoàn/tổng công ty. Hai là, chuyển giao toàn bộ số cổ phần, phần vốn góp sang tập đoàn, tổng công ty nhà nước có chuyên ngành kinh doanh chính thuộc các lĩnh vực tương ứng nói trên. Ba là, chuyển giao hoặc sáp nhập, hợp nhất toàn bộ doanh nghiệp do tập đoàn/tổng công ty nắm giữ 100% vốn với tập đoàn/tổng công ty và doanh nghiệp có cùng ngành nghề kinh doanh với doanh nghiệp được chuyển giao/hợp nhất hay sáp nhập nói trên.
+ Các tập đoàn, tổng công ty phải cơ cấu lại hoạt động kinh doanh, phân bố lại các nguồn lực và đổi mới, nâng cao hiệu lực quản trị nội bộ và hiệu quả quản lý theo các hướng sau đây: Một là, xây dựng phương án và thực hiện tái cơ cấu các doanh nghiệp thành viên, tái cơ cấu danh mục đầu tư tại các công ty liên kết theo hướng tập trung chuyên môn hóa, phân công phối hợp và bổ sung trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty; khắc phục đầu tư dàn trải, phân tán và cạnh tranh nhau trong nội bộ từng tập đoàn, tổng công ty. Hai là, rà soát, đánh giá lại danh mục các dự án đầu tư; đình hoãn hoặc chuyển giao các dự án chưa cần thiết, dự án ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, tập trung vốn đầu tư và hoàn thành một cách sớm nhất các dự án thật sự cần thiết và hiệu quả.
+ Rà soát, đánh giá, tập hợp và phân loại nợ (gồm các khoản nợ phải thu và phải trả) của công ty thành viên và toàn bộ tập đoàn, tổng công ty; xử lý các khoản nợ quá hạn, không có khả năng thanh toán theo các hình thức thích hợp; thực hiện giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật đối với các doanh nghiệp thành viên liên tục bị thua lỗ, không thanh toán được các khoản nợ đến hạn.
+ Thiết lập và vận hành tốt hệ thống thông tin quản lý, gồm thông tin về mục tiêu, kế hoạch và kết quả hoạt động tài chính, thông tin về mục tiêu, kế hoạch và kết quả hoạt động kinh doanh, thông tin về kết quả kiểm soát nội bộ (thường xuyên và định kỳ), kết quả kiểm toán, thông tin về danh mục đầu tư, chất lượng danh mục các khoản đầu tư và tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, thông tin về từng cán bộ quản lý chủ chốt của tập đoàn/tổng công ty và các lợi ích của họ có liên quan đến tập đoàn/tổng công ty; thông tin về sự kiện quan trọng liên quan đến tập đoàn/tổng công ty nói chung, các đơn vị thành viên nói riêng, về các rủi ro và biến động bất thường liên quan,...
Căn cứ vào các định hướng trên đây, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn, tổng công ty và các doanh nghiệp khác phải xây dựng đề án, kế hoạch tái cơ cấu riêng phù hợp, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để triển khai thực hiện./.
-------------------------
Tài liệu tham khảo:
(1). V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1977, t.36, tr. 362
(2). V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1978, t.43, tr. 24
(3). V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1978, t.43, tr. 248
(4). Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73-74
(5). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013, Báo Nhân Dân, ngày 10-12-2013, tr. 2
(6). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 83
(7). Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 73-74
(8). Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 74
(9). Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 110
Hơn 39.000 lượt người vào Lăng viếng Bác Hồ dịp Tết  (05/02/2014)
Việt Nam thu hút có chọn lọc FDI trong giai đoạn mới  (05/02/2014)
Cộng đồng người Việt ở Pháp mừng Xuân Giáp Ngọ  (05/02/2014)
Chile đánh giá cao hiệp định thương mại tự do với Việt Nam  (05/02/2014)
Tổng thống Putin là chính trị gia số 1 thế giới năm 2013  (05/02/2014)
Ngành du lịch Lào vượt chỉ tiêu về thu hút khách quốc tế  (05/02/2014)
- Nhận diện những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức chủ yếu của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Hội nghị Trung ương 3 khóa XX Đảng Cộng sản Trung Quốc: Chú trọng duy trì ổn định và phát triển chất lượng cao
- Tư duy lý luận của Đảng về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1991 đến nay
- Nâng cao hiệu quả công tác nắm bắt, định hướng dư luận xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong bối cảnh mới
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm