Cải cách hành chính về thuế và hải quan giai đoạn 2001 - 2004 và các năm tiếp theo
1 - Cải cách về thể chế chính sách trong lĩnh vực thuế, hải quan
Bốn năm qua (2001 - 2004), Bộ Tài chính đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu trình Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung 4 luật, 2 pháp lệnh, 17 nghị định quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh về thuế, phí và hải quan; đã kịp thời ban hành các thông tư hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện các luật, pháp lệnh, nghị định nói trên. Nhìn chung hệ thống chính sách thuế, phí và hải quan đã được cải cách theo hướng: giảm mức thuế suất, mở rộng diện ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện các cam kết quốc tế. Việc triển khai thực hiện đã được cộng đồng doanh nghiệp nhất trí cao, không còn những vướng mắc lớn. Nội dung cải cách hành chính trong từng luật, pháp lệnh về thuế, phí, hải quan như sau:
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng đã giảm thuế suất từ 4 mức trước đây (0%, 5%, 10%, 20%) xuống còn 3 mức (0%, 5%, 10%), bỏ mức thuế suất cao 20%. Mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% để khuyến khích xuất khẩu dịch vụ, bãi bỏ việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ % nhằm ngăn chặn việc lợi dụng khấu trừ thuế khống để chiếm đoạt tiền của ngân sách nhà nước. Quy định rút ngắn thời gian hoàn thuế cho doanh nghiệp từ 3 tháng hoàn 1 lần, xuống áp dụng hoàn ngay lúc phát sinh đối với số thuế phải hoàn từ 200 triệu đồng để không gây ra đọng vốn cho doanh nghiệp. Khuyến khích sử dụng hóa đơn tự in để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng hóa đơn phù hợp với đặc điểm của đơn vị.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, đã giảm một số thuế suất cao đối với một số mặt hàng như: thuế suất đối với ô tô giảm từ 100%, 80%, 30% xuống còn 80%, 50%, 25% (tương ứng với từng loại ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống, từ 6 đến 15 chỗ ngồi và từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi). Thuế suất đối với bia hơi giảm từ 50% xuống 30%; đối với xăng giảm từ 15% xuống 10%; đối với điều hòa nhiệt độ giảm từ 20% xuống còn 15%; đối với kinh doanh gôn giảm từ 20% xuống 10%... Quy định rõ lộ trình cắt giảm ưu đãi về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất trong nước từ năm 2004 đến 2007 để các doanh nghiệp chủ động thực hiện.
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) giảm thuế suất từ 32% xuống còn 28%, áp dụng thống nhất cho cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước; bãi bỏ thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung 25% đối với doanh nghiệp trong nước; bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với Việt kiều và các nhà đầu tư nước ngoài tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng tích lũy, tăng đầu tư. Áp dụng các mức ưu đãi về thuế cao nhất là 10%, 15%, 20% (tùy theo dự án đầu tư) đối với doanh nghiệp trong nước và cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (trước đó chỉ được hưởng mức thuế suất ưu đãi là 15%, 20%, 25%). Tăng tỷ lệ chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế từ 5% - 7% lên 10% tổng chi phí; cho phép khấu hao nhanh đến 2 lần mức khấu hao thông thường để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật.
Luật Hải quan được ban hành đã tạo ra một bước cải cách hành chính mạnh mẽ trong công tác quản lý hải quan. Luật quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, cán bộ hải quan và trách nhiệm của khách hàng, xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người khai hải quan để phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp. Hình thành khâu kiểm tra sau thông quan, thực hiện hậu kiểm để giải phóng nhanh hàng hóa, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Luật Hải quan đã tạo điều kiện chuyển từng bước hoạt động hải quan sang quản lý rủi ro theo tập quán quốc tế. Từ sau khi ban hành Luật Hải quan, các văn bản quy định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Hải quan đã giảm từ 450 văn bản xuống còn 50 văn bản.
Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (sửa đổi) đã bỏ thuế suất cao 50% trong biểu thuế đối với cả người Việt Nam và người nước ngoài; bỏ thuế thu nhập bổ sung 30% đối với người Việt Nam. Đáng chú ý là nâng mức khởi điểm chịu thuế đối với người Việt Nam từ 3 triệu đồng/tháng lên 5 triệu đồng/tháng; đồng thời mở rộng khoảng cách mức thu nhập chịu thuế trong từng bậc thuế suất của biểu thuế đối với người Việt Nam. Nếu như trước đây thu nhập bình quân/tháng trên 3 triệu đến 6 triệu đồng nộp thuế 10%, trên 6 triệu đồng đến 9 triệu đồng nộp thuế 20%, trên 9 triệu đến 12 triệu đồng nộp thuế 30%, trên 12 đến 15 triệu đồng nộp thuế 40% thì nay 5 triệu đồng không phải nộp thuế, trên 5 triệu đến 15 triệu đồng chỉ phải nộp thuế 10%, trên 15 triệu đến 25 triệu đồng nộp 20%. Như vậy, việc sửa đổi này đã giảm bớt tỷ lệ động viên thu nhập đối với người lao động, qua đó cải thiện đời sống và nâng tích lũy của người lao động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí về lao động, khuyến khích sử dụng lao động là người Việt Nam.
Qua việc thực hiện Pháp lệnh Phí và Lệ phí, cả nước đã bãi bỏ được 140 loại phí, lệ phí do các cơ quan ở trung ương ban hành không đúng quy định; bãi bỏ 203 loại phí, lệ phí do các cấp chính quyền ở địa phương ban hành không đúng quy định. Đối với những loại phí, lệ phí còn hiệu lực thi hành đã được tổ chức rà soát lại, giảm bớt những mức thu cao để giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp, như phí hàng hải giảm 30%, phí cầu, đường bộ giảm 20%, có loại giảm 70 - 100% như lệ phí hạn ngạch hàng dệt may vào thị trường Mỹ... Có 8 loại phí còn có sự phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài, đã được sửa đổi bổ sung theo mức thu thống nhất như đối với người Việt Nam, như phí kiểm dịch động vật, thực vật, phí tần số vô tuyến điện, phí tham quan danh lam thắng cảnh... Việc rà soát, bãi bỏ, sắp xếp lại phí, lệ phí như đã nêu ở trên đã giảm được chi phí đầu vào cho sản xuất kinh doanh mỗi năm gần 1.000 tỉ đồng, đồng thời bãi bỏ được nhiều thủ tục phiền hà cho doanh nghiệp.
Thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực thuế và hải quan, đã chủ động thể chế hóa các cam kết quốc tế về thuế và hải quan vào các văn bản pháp luật theo các quy định của Công ước Kyoto về thủ tục hải quan và chứng từ hải quan, Hiệp định TRIPS bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, Công ước quốc tế về hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa (Công ước HS), Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Đây vừa là động lực, vừa là thách thức lớn tác động mạnh đến việc nâng cao năng lực quản lý của cơ quan thuế, hải quan, vừa là áp lực thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao sức cạnh tranh.
2 - Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan
Trong 4 năm qua, cải cách về thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, phí và hải quan đã được xác định là một khâu trọng tâm mang tính đột phá, được thực hiện đồng bộ trên cả hai mặt: quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân (quan hệ giữa người thu và người nộp) và quan hệ giữa các cơ quan nhà nước (giữa hệ thống thuế với hải quan, giữa cấp trên với cấp dưới từng hệ thống) được triển khai thực hiện trong tất cả các khâu công việc. Cụ thể là:
Về đổi mới cơ chế kê khai, nộp thuế: Đã bỏ cơ chế thông báo, áp đặt thuế, tính thuế thay doanh nghiệp từ ngày 1-1-2004, chuyển dần sang áp dụng cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Người khai hải quan tự xác định mã số hàng hóa, thuế suất, được nợ giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) trong thời gian 60 ngày, được tạm nộp theo thuế suất thấp trong khi chưa nộp C/O, quy định doanh nghiệp không phải trả chi phí nếu cơ quan Hải quan yêu cầu giám định lại.
Về cải tiến việc đăng ký cấp mã số thuế: Trước đây, doanh nghiệp phải đăng ký cấp mã số tại hai nơi: cơ quan thuế cấp mã số thuế, cơ quan hải quan cấp mã số xuất, nhập khẩu, mỗi nơi mất gần 30 ngày, thì nay thống nhất áp dụng chung một mã số thuế cho cả hoạt động kinh doanh trong nước và hoạt động xuất, nhập khẩu. Doanh nghiệp chỉ đăng ký làm thủ tục tại một nơi: cơ quan thuế cấp mã số truyền qua mạng cho cơ quan hải quan nên thời gian rút ngắn xuống còn 10 - 15 ngày (ở các thành phố lớn chỉ còn 8 ngày).
Thực hiện đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ trong các khâu mua hóa đơn: Trước đây, mỗi lần mua hóa đơn, doanh nghiệp phải kê khai nhiều loại giấy tờ rất phức tạp. Nay quy định doanh nghiệp được cấp mã số thuế là được mua ngay hóa đơn lần đầu; để mua các lần sau, doanh nghiệp chỉ cần trình phiếu mua hóa đơn lần trước. Coi trọng việc khuyến khích doanh nghiệp sử dụng hóa đơn tự in, đồng thời phân cấp cho các cục thuế cấp tỉnh xét duyệt sử dụng hóa đơn tự in nên đã giảm bớt được nhiều phiền hà cho doanh nghiệp.
Cải tiến các tờ khai để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp: Tờ khai thuế trước đây quy định rất đơn giản, nhưng lại yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp khá nhiều các báo cáo và biểu mẫu có liên quan. Tờ khai thuế mới có đầy đủ các chỉ tiêu theo yêu cầu của công tác quản lý thuế, doanh nghiệp chỉ việc điền vào các chỉ tiêu có liên quan mà hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có phát sinh. Như vậy vừa bảo đảm đầy đủ thông tin theo yêu cầu của cơ quan thuế, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp dễ kê khai. Còn tờ khai hải quan, trước đây quy định hơn 50 tiêu chí, nay quy định tờ khai hải quan hàng xuất khẩu còn 27 tiêu chí và hàng nhập khẩu còn 48 tiêu chí. Các giấy tờ cần thiết trong bộ hồ sơ hải quan được giảm từ trên 10 xuống còn 4 loại đối với tờ khai nhập khẩu, còn 3 loại đối với tờ khai xuất khẩu. Ở nơi đã triển khai thí điểm khai hải quan điện tử, kê khai thuế qua mạng hoặc đĩa mềm, thì thủ tục kê khai còn đơn giản, thuận tiện hơn.
Sửa đổi các quy định về quyết toán thuế tạo thuận lợi cho đối tượng nộp thuế: Thời hạn doanh nghiệp phải nộp quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp được kéo dài từ 60 ngày lên 90 ngày sau khi hết năm. Việc kê khai quyết toán thuế giá trị gia tăng cũng đã được cải tiến để giảm bớt phiền hà cho doanh nghiệp.
Đổi mới quy trình quản lý theo nguyên tắc một cửa, chuyên môn hóa cao: Ngành thuế đã bỏ chế độ chuyên quản khép kín, chuyển sang quản lý theo chức năng, thực hiện quy trình quản lý thuế tách 3 bộ phận để tăng cường giám sát lẫn nhau. Ngành hải quan tổ chức dây chuyền thủ tục hải quan hoàn chỉnh, bỏ nhiều khâu trung gian, giảm thời gian làm thủ tục hải quan: đối với hàng nhập khẩu theo hợp đồng thương mại trước đây phải qua 4 khâu thủ tục, nay giảm còn 3 khâu, hàng xuất khẩu còn 2 khâu; mỗi khâu thủ tục trước đây cần 2 - 3 người, nay chỉ cần 1 người; thời gian thông quan trước đây mất 1 - 3 ngày nay chỉ còn từ 1 đến 2 giờ đối với lô hàng được miễn kiểm tra, hoặc 1/2 ngày đối với lô hàng phải kiểm tra.
Bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ thuật hiện đại vào công tác quản lý như: sử dụng hệ thống mạng máy tính, thiết lập cơ sở dữ liệu thông tin về đối tượng nộp thuế, thông tin về giá, quản lý hàng gia công để giải quyết công việc nhanh hơn, hạn chế được sự nhầm lẫn trong cưỡng chế nợ thuế. Thí điểm khai hải quan điện tử tại các địa bàn trọng điểm; thí điểm thông quan điện tử đối với dầu thô xuất khẩu, hàng hóa xuất nhập khẩu qua đường bưu điện, làm thủ tục đối với tàu biển xuất, nhập cảnh, trang bị các máy soi hiện đại ở một số cửa khẩu quốc tế tại sân bay và một số cửa khẩu đường bộ phục vụ thông quan nhanh.
3 - Cải cách về tổ chức bộ máy và cán bộ trong lĩnh vực thuế, hải quan
Từ việc thay đổi phương thức quản lý và bỏ thông báo thuế, trao quyền cho doanh nghiệp tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế, cho nên bộ máy quản lý thuế, hải quan cũng được tổ chức lại theo mô hình quản lý theo nguyên tắc một cửa, quản lý theo chức năng, bỏ những công việc trùng lặp, bỏ các khâu giám sát chồng chéo, xây dựng lực lượng chuyên nghiệp, chuyên sâu. Do vậy, thời gian giải quyết công việc được rút ngắn hơn trước. Thực hiện Quyết định số 113 và 218 của Thủ tướng Chính phủ(1), ngành thuế đã sắp xếp lại, lược bỏ 1.042 bộ phận không cần thiết; ngành hải quan thành lập bộ phận kiểm tra sau thông quan, hình thành bộ phận giá và thanh tra, đồng thời với việc giảm đầu mối cấp phòng, bỏ cấp đội thuộc phòng, giảm bộ máy gián tiếp để tăng cường lực lượng trực tiếp làm việc tại các cửa khẩu. Đáng chú ý là trong ngành thuế đã xây dựng quy chế phối hợp công tác với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài ngành để giải quyết công việc nhanh hơn, có hiệu quả hơn và đúng với quy định của pháp luật. Trong nội bộ ngành đã có quy chế phối hợp công tác giữa Tổng cục Thuế - Tổng cục Hải quan - Kho bạc Nhà nước trong việc thu nộp thuế, cung cấp dữ liệu làm báo cáo thống kê, thông tin tình hình doanh nghiệp. Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan đã có quy chế phối hợp với Tổng cục Cảnh sát kinh tế trong việc kiểm tra chống buôn lậu, chống gian lận thương mại; phối hợp với cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan ngân hàng, cơ quan quản lý thị trường để nắm thông tin của doanh nghiệp từ khi thành lập cho đến quá trình kinh doanh, lưu thông hàng hóa và thanh toán tiền hàng để phục vụ quản lý thu thuế.
Đẩy mạnh phân cấp cho các cục, chi cục Thuế, Hải quan trong việc xác định giá tính thuế, thu lệ phí trước bạ, giải quyết miễn, giảm thuế, hoàn thuế, quyết định kiểm tra sau thông quan... trên cơ sở đó có sự phân công rõ ràng, cụ thể hóa trách nhiệm của từng công chức, từng khâu công việc trong quy trình thủ tục quản lý. Ngành thuế cũng đang mở rộng việc ủy nhiệm thu một số khoản thuế cho Ủy ban nhân dân xã, phường bảo đảm sát dân hơn, hiệu quả hơn và giảm được chi phí đi lại và sự chờ đợi của cơ sở kinh doanh. Việc bố trí cán bộ quản lý thuế đã chuyển từ quản lý theo đối tượng (khép kín) sang quản lý theo chức năng nhằm hạn chế tiêu cực, đồng thời tạo điều kiện tiến tới xây dựng lực lượng cán bộ thuế chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế. Tăng cường lực lượng cán bộ cho công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế và người khai hải quan, công tác thanh tra; thành lập tổ giải quyết vướng mắc tại các cục và chi cục Hải quan để tiếp nhận, giải quyết nhanh các vướng mắc của doanh nghiệp.
Thời gian qua đã thực hiện điều động, luân chuyển, luân phiên 4.980 lượt cán bộ, đồng thời với việc giảm biên chế, bổ nhiệm lại khoảng 2 ngàn cán bộ lãnh đạo (trong đó, ngành hải quan đã tăng cường được 714 biên chế xuống các chi cục cửa khẩu; ngành thuế giảm 1.128 đầu mối cùng với giảm 1.195 vị trí lãnh đạo, bổ nhiệm lại 1.592 cán bộ lãnh đạo ở tất cả các cấp). Thông qua việc bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo đã rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ để có biện pháp quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn. Công tác đào tạo và đào tạo lại để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ sẽ tập trung theo hướng chuyên sâu, đi vào kỹ năng từng khâu quản lý đối với từng ngạch công chức; coi trọng cả về chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật công tác và chuyên môn, nghiệp vụ (năm 2003 ngành thuế có 94,1% cán bộ được đào tạo, trong đó 34% là đại học và trên đại học, có 30 - 40% cán bộ được bồi dưỡng tập huấn về nghiệp vụ).
Nhìn chung, công tác cải cách hành chính về thuế và hải quan 4 năm qua được tiến hành tương đối toàn diện, đồng bộ và đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, so với yêu cầu về hội nhập và hiện đại hóa ngành thuế và hải quan, công tác cải cách hành chính vẫn còn có những tồn tại khó khăn cần khắc phục trong thời gian tới.
5 - Cải cách hành chính về thuế và hải quan năm 2005 và các năm tiếp theo
Cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan năm 2005 và những năm tiếp theo phải hướng tới mục tiêu là bám sát và bắt kịp với trình độ quản lý của các nước ASEAN vào năm 2010. Có lộ trình từng bước, xây dựng và áp dụng hệ thống ứng dụng theo chuẩn mực quốc tế: thực hiện quản lý tập trung đối với hệ thống hải quan vào năm 2006; hệ thống quản lý thuế vào năm 2008; phấn đấu đến năm 2010 công tác quản lý thuế và hải quan phải đạt tiêu chuẩn tiên tiến, hiện đại của các nước trong khu vực.
Trước mắt, tiếp tục công cuộc cải cách hệ thống thuế bước ba, xây dựng hệ thống thuế hiện đại, có hiệu lực và hiệu quả, có kết cấu hợp lý theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010. Bổ sung, sửa đổi một cách căn bản Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu và Luật Hải quan, tạo điều kiện đẩy mạnh cải cách hành chính để áp dụng các quy trình thủ tục đơn giản, thông thoáng và minh bạch, áp dụng công nghệ quản lý hiện đại phù hợp với tập quán và các cam kết quốc tế theo lộ trình hội nhập. Tiếp tục tổng kết đánh giá thực tiễn để nghiên cứu sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, trình Quốc hội ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế tài sản, Luật Thuế sử dụng đất... Cùng với việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các luật, pháp lệnh về thuế, trình Quốc hội ban hành Luật Quản lý thuế vào năm 2006 tạo cơ sở pháp lý cải cách căn bản công tác quản lý thuế từ quy trình thủ tục hành thu (tiến hành quản lý thu) đến tổ chức bộ máy và cán bộ. Năm 2005, mở rộng việc áp dụng quy trình tự khai, tự tính, tự nộp thuế đối với các đối tượng nộp thuế; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, cung cấp các dịch vụ tư vấn thuế, đồng thời chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra các đối tượng nộp thuế và thanh tra trong nội bộ ngành thuế, tạo điều kiện từng bước hiện đại hóa công tác quản lý thuế.
Nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan. Nhanh chóng hoàn thiện và triển khai đề án hiện đại hóa ngành hải quan để đáp ứng tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa các đơn vị trong ba hệ thống thuế - hải quan - kho bạc trong các hoạt động nghiệp vụ, cung cấp và trao đổi thông tin, dữ liệu bảo đảm phục vụ thuận lợi cho công tác thu thuế và các đối tượng nộp thuế. Tiếp tục cải cách quy trình thủ tục quản lý thuế, hải quan; về cải cách bộ máy và công tác cán bộ, sắp xếp và luân chuyển cán bộ. Phấn đấu xây dựng lực lượng cán bộ thuế, hải quan có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên nghiệp, chuyên sâu về nghiệp vụ, sử dụng được các phương tiện hiện đại. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, tạo điều kiện hỗ trợ cho việc thực hiện công tác quản lý thuế, hải quan theo công nghệ mới.
Cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa, tại chỗ" ở khu công nghiệp ở Đồng Nai  (22/01/2007)
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức - vấn đề bức xúc trong cải cách hành chính  (22/01/2007)
Tăng cường vai trò giám sát của quốc hội, chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản  (22/01/2007)
Tăng cường vai trò giám sát của quốc hội, chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản  (22/01/2007)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển