Công nghệ thông tin trong đổi mới phương thức tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh
Trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, các phương thức tổ chức sản xuất mới luôn được tìm kiếm, thử nghiệm nhằm chứng nghiệm sự phát triển về mặt tư duy của con người và nâng cao hiệu quả lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, có tác động mạnh mẽ và làm thay đổi các phương pháp tổ chức công việc sản xuất, kinh doanh trong 30 năm qua. Các phương pháp đã được thử nghiệm, gồm: (1) phương thức sản xuất "Lean production" hay còn gọi "Sản xuất vừa đủ" (năm 1992) bắt nguồn từ kiểu sản xuất của hãng Toyota với phương châm triệt tiêu tồn kho, sản xuất theo đơn đặt hàng, cung cấp thông tin, báo cáo theo chiều dọc và bất kỳ nhân viên nào cũng có thể đề xuất ý kiến cải tiến công việc và chất lượng sản phẩm; (2) phương thức sản xuất "Re-ingenering" hay còn gọi là "Cơ cấu lại" (năm 1993) nhằm vào cắt giảm chi phí và hướng ngoại đáp ứng các nhu cầu khách hàng, liên quan chủ yếu đến đội ngũ cán bộ chủ chốt, với cốt lõi là ứng dụng công nghệ thông tin để tạo ra những dịch vụ mới, phối hợp kiểm tra công việc thông qua các mạng nội bộ mà không thông qua cán bộ trung gian; (3) phương thức "Quản lý toàn diện chất lượng" (năm 1995) nhằm phát triển sâu hơn một số điểm của lý thuyết sản xuất vừa đủ như thoả mãn toàn bộ nhu cầu khách hàng và xoá bỏ tình trạng lãng phí; (4) phương thức "Modul" (năm 2000) nhằm khái quát phương pháp chia một cách hiệu quả quy trình sản xuất thành những modul sản xuất hợp lý.
Đây là bốn phương thức cơ bản được khái quát hoá trong thời gian qua. Trên thực tế, trong cùng một doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan (gọi tắt là tổ chức) có thể cùng tồn tại những phương thức sản xuất, tổ chức công việc rất khác nhau. Tuy nhiên, những cố gắng, những áp dụng đa dạng đó đều hướng tới mục tiêu là loại bỏ dần phương thức tổ chức công việc kiểu Taylor dựa trên phương châm "lợi ích kinh tế nhờ quy mô, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, mỗi nhân viên một phận sự" để đi tìm một phương thức tổ chức phù hợp và hiệu quả hơn. Cùng với những thành quả vĩ đại của công nghệ thông tin, chính các phương thức linh hoạt đã tham gia trực tiếp vào quá trình nâng cao hiệu quả tổ chức công việc của các tổ chức.
Nhiều mô hình lý thuyết chứng minh rằng công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc cấu trúc lại tổ chức, đặc biệt khuyến khích phân cấp chức năng, hoặc tăng cường hiệu quả của tính đa năng trong tổ chức. Nhưng việc áp dụng công nghệ thông tin để tổ chức lại công việc không đơn thuần chỉ là dùng công nghệ thông tin hỗ trợ cho hoạt động của tổ chức. Bởi vì, toàn bộ những lựa chọn của một tổ chức về các nội dung như định hướng chiến lược phát triển, quy chế hoạt động, quy trình sản xuất hay công nghệ hoạt động phải mang tính bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, tương tác lẫn nhau trong quá trình phát triển. Một thay đổi của nội dung này sẽ kéo theo sự thay đổi của các nội dung khác, nhưng nếu các nội dung khác có sức ì quá lớn thì mong muốn thay đổi một nội dung không thể đạt được kết quả tốt. Có thể thấy, từ ý tưởng, đến tổ chức triển khai ý tưởng và tổ chức phương thức thực hiện ý tưởng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sâu xa của vấn đề, đây chính là mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối quan hệ này chỉ phát huy hiệu quả, khi một sự thay đổi trên một bình diện nào đó, ví dụ như về công nghệ chẳng hạn, chỉ có thể có hiệu quả nếu như sự thay đổi đó phù hợp với những quy trình sản xuất khác, cơ cấu tổ chức khác; hoặc phải thay đổi các quy trình sản xuất khác để công nghệ vừa được thay đổi có thể phát huy được hiệu quả. Như vậy, vô hình trung chúng ta đang chuyển từ mô hình sản xuất tối ưu này sang một mô hình khác. Một doanh nghiệp quyết định trang bị máy vi tính, dựng website để có thể biết được tức thời những đơn đặt hàng của khách hàng. Nhưng mô hình tổ chức vẫn theo kiểu Taylor thì sẽ không thể đáp ứng được tính chất thay đổi nhanh của các đơn đặt hàng. Rõ ràng, đầu tư vào ứng dụng công nghệ thông tin như trên sẽ là đầu tư thua lỗ. Thế nhưng, nếu doanh nghiệp có một cơ cấu sản xuất linh hoạt, nhưng lại không biết được diễn biến của nhu cầu thị trường, thì sự "linh hoạt" đó cũng trở nên vô nghĩa. Vì thế, ứng dụng công nghệ thông tin phải đi kèm với những thay đổi lớn về tổ chức lại lao động. Kết hợp đổi mới tổ chức với áp dụng công nghệ thông tin, hiệu suất lao động sẽ tăng lên rõ rệt. Tức là sự phát triển trình độ của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hợp lý giữa phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, và ngược lại trong các doanh nghiệp có mức độ tin học hoá cao thì đổi mới tổ chức đặc biệt hiệu quả.
Việc đầu tư cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phải được tính toán dựa trên cơ sở quy hoạch đến chi tiết từng bước cải cách hành chính. Cho đến nay, việc đầu tư cho công tác tin học hoá, trước hết là đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, máy móc (đây là phần nhìn được rõ nhất, dễ đếm nhất); tiếp đến là đầu tư cho xây dựng các loại phần mềm ứng dụng; và sau cùng mới đề cập đến xây dựng nội dung thông tin, cơ sở dữ liệu. Hiện tại, chúng ta đang có một số băn khoăn. Thứ nhất, sau khi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin, tức là chúng ta như đã có hệ thống đường cao tốc, sẽ có các loại phương tiên giao thông nào chạy trên những con đường đó? những hàng hoá nào được chở trên những phương tiên giao thông đó?. Thứ hai, một số phần mềm ứng dụng của một số tổ chức, một vài hệ thống tổ chức đã và đang được xây dựng, nhưng liệu các loại phần mềm ứng dụng này đã xuất phát trên cơ sở những quy hoạch, lộ trình, quy trình cải cách hành chính của các tổ chức, hệ thống tổ chức đó chưa thì chưa có câu trả lời. Đến khi nhận thức rõ quy luật, điều kiện cần và đủ của việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ điều hành tác nghiệp, thì liệu các phần mềm ứng dụng này có dùng tiếp được không? chưa nói việc hoạch định lộ trình cải cách hành chính không phải là dễ, nhất là việc thực hiện lộ trình đó càng khó hơn. Thứ ba, việc xây dựng nội dung thông tin, cho đến nay, chưa được quan tâm đúng mức. Vậy làm sao tạo được môi trường xây dựng chính phủ điện tử, chưa kể đến đây là một việc rất khó làm xuất phát từ tính hệ thống, cụ thể, chuyên sâu, tốn kém của các cơ sở dữ liệu, cũng như xuất phát từ thói quen "cát cứ" thông tin của các tổ chức, cơ quan nhà nước.
Cho đến nay, mô hình tổ chức theo kiểu hình tháp, thứ bậc phân cấp rõ rệt về chức năng và một hệ thống chỉ huy từ trên xuống, đã bộc lộ rõ tính cồng kềnh và quan liêu của nó, hiện đang được thay thế bởi các loại hình tổ chức mới theo kiểu mạng lưới. Muốn dùng mạng để thay thế cho kết cấu hệ thống kiểu hình tháp, thì trước hết phải chuyển biến được quan niệm, về chuẩn mực quản lý, thay thế chuẩn mực quản lý cũ bằng chuẩn mực quản lý mới. Cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu đang đặt ra những thách thức hết sức nghiêm trọng đối với tổ chức quản lý truyền thống theo kiểu hình tháp và mở ra cơ hội ngày một lớn đối với phương thức tổ chức quản lý theo mạng lưới. Phương thức này đã và đang được triển khai với các mức độ, quy mô khác nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Các doanh nghiệp đang từ bỏ mô hình kiểu "dây chuyền Taylor" để áp dụng mô hình mạng lưới trong tổ chức quản lý. Trong lĩnh vực lập pháp, môi trường "nối mạng" đang tạo điều kiện thuận lợi để thực thi dân chủ trực tiếp của nhân dân.
Suy cho cùng, ứng dụng quan trọng nhất của máy tính và mạng là thực hiện nhiệm vụ điều phối. Có nghĩa là cuộc cách mạng này là do công nghệ thông tin thúc đẩy, mà vai trò trung tâm của công nghệ thông tin là điều phối- chức năng cơ bản của quản lý. Do đó, chúng ta có thể nói rằng, kinh tế tri thức và quản lý tổ chức là hai cấu thành tiên phong của xã hội tương lai. Nó tác động lẫn nhau, là nhân quả cho nhau, thúc đẩy lẫn nhau và thúc đẩy xã hội phát triển. Cùng với việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tổ chức quản lý theo kiểu mạng lưới được các nước công nghiệp phát triển coi là hết sức phù hợp đối với việc tự quản của các công ty, tập đoàn, các cơ quan và tổ chức nghiên cứu, cũng như để cạnh tranh có hiệu quả cao thông qua đổi mới công nghệ. Với hình thức tổ chức quản lý này, con người được đặt vào vị trí trung tâm, những điều kiện thuận lợi được tạo ra để phát huy vai trò của từng cá thể.
Công ty và các tổ chức có thể được kết nối từ những đơn vị rời rạc về vị trí địa lý hoặc từ những công đoạn sản xuất tại các vị trí khác nhau. Các công đoạn sản xuất hoặc các đơn vị của công ty sẽ dễ dàng được bố trí ở những nơi có điều kiện thuận tiện về lao động. Sản phẩm, linh kiện đơn giản sẽ được sản xuất tại các nước thu nhập thấp, còn các dịch vụ, quản lý, phát triển cần dựa trên tri thức được bố trí ở các nước phát triển. Đây cũng là vấn đề quan trọng đòi hỏi chúng ta phải xem xét khi hoạch định các chính sách phát triển công nghệ thông tin trong quá trình hội nhập kinh tế. Ví như việc "khuyến khích và hỗ trợ việc phổ cập và nâng cao trình độ ngoại ngữ trong một bộ phận nhân dân, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên" để tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin mà Chỉ thị 58- CT/TW đã nêu. Chúng ta muốn chiếm lấy những công đoạn sản xuất phù hợp trong quá trình phân công lao động quốc tế, hoặc chúng ta muốn có những hợp đồng công việc ngắn hạn và dài hạn từ các nước phát triển, nói tiếng Anh chẳng hạn, thì đội ngũ lao động của chúng ta ít nhất phải có một trình độ Anh ngữ cần thiết để thấu hiểu được yếu tố văn hoá cần có trong các sản phẩm (ví như phần mềm) mà ta sắp phải gia công.
Công nghệ thông tin có vai trò và khả năng rất lớn đối với quá trình đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh. Nhưng để phát huy được khả năng này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị quyết liệt của các cấp, các ngành, các tổ chức, các thành phần kinh tế để cùng hướng tới tạo môi trường thuận lợi, phù hợp. Kiện toàn hệ thống chỉ đạo và quản lý nhà nước về công nghệ thông tin từ trung ương tới các địa phương cả về tổ chức và nhân sự để có thể thực hiện được phương châm "năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển". Các cơ quan quản lý nhà nước về công nghệ thông tin phải đảm bảo đảm chỉ đạo, hướng dẫn, tham mưu, xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án, các giải pháp và chính sách cần thiết nhằm đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Trước hết, cần cơ cấu, tổ chức lại Ban chỉ đạo Công nghệ Thông tin Quốc gia theo tinh thần là Ban chỉ đạo duy nhất và tập trung nhất về công nghệ thông tin, thống nhất chỉ đạo toàn bộ các hoạt động công nghệ thông tin của quốc gia, kể cả các hoạt động công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, các cơ quan Chính phủ… Thống nhất chỉ đạo ban hành và thực hiện các chuẩn mực cơ bản, nhất là các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhất để đặt mọi hoạt động về công nghệ thông tin trên cơ sở, nền tảng được thống nhất hoá, quốc tế hoá ngay từ đầu. Tạo lập môi trường cạnh tranh cao và lành mạnh. Công nghệ thông tin là công cụ quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và cung cấp các dịch vụ. Trong môi trường cạnh tranh cao và lành mạnh các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân coi trọng công nghệ thông tin như là giải pháp quan trọng tất yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, quan tâm đến việc ứng dụng các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin chất lượng cao, nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin. Nhà nước cần có các chế tài phù hợp để ưu tiên các doanh nghiệp công nghệ thông tin trong nước, các sản phẩm, giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin thương hiệu Việt Nam có điều kiện tiếp cận và tham gia các dự án công nghệ thông tin sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Mặt khác, trong môi trường cạnh tranh cao và lành mạnh, các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin để tồn tại cũng phải không ngừng hoàn thiện các sản phẩm của mình, đi đôi với việc giảm giá thành nhằm không ngừng duy trì và không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ công nghệ thông tin. Và đây cũng là tư tưởng chính của Chỉ thị 58- CT/TW ngày 17- 10- 2000 của Bộ Chính trị (Khoá VIII) "Về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá".
Cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương  (22/01/2007)
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức công chức trong điều kiện cải cách hành chính Nhà nước  (22/01/2007)
Hội nhập tài chính quốc tế năm 2002 và giải pháp những năm tới  (22/01/2007)
Cải cách hành chính, thành quả và định hướng tiếp tục đổi mới  (22/01/2007)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển