Năm 2011 và 2012: từ góc nhìn tài chính

Nguyễn Minh Phong TS, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội
21:41, ngày 20-12-2011
TCCSĐT - Bước vào năm 2011, nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn và thách thức hơn so với dự báo. Giá lương thực, thực phẩm, giá dầu thô và nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng cao; thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh; khủng hoảng nợ công ở nhiều nước và tăng trưởng kinh tế của thế giới chậm lại; lạm phát cao tại hầu hết các quốc gia... đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta.
Bức tranh tài chính Việt Nam năm 2011

Ở trong nước, lạm phát và mặt bằng lãi suất tăng cao, nhập siêu lớn, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, giá vàng trên thị trường biến động bất thường, dự trữ ngoại hối giảm mạnh gây áp lực lên thị trường tiền tệ và tỷ giá, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn... Vì vậy, nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô đã trở thành một thách thức lớn.

Trước bối cảnh đó, Chính phủ đã điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ thắt chặt, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, rà soát, cắt giảm và bố trí lại đầu tư công, đồng thời, thực hiện miễn, giảm nhiều loại thuế cho doanh nghiệp và cá nhân (giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, giảm 50% mức thuế khoán thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân cho một số đối tượng; giảm từ 50 - 100% thuế thu nhập cá nhân đối với cổ tức được chia trong hoạt động đầu tư chứng khoán; miễn thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1 của biểu thuế). Do vậy, bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 giảm xuống còn 4,9% GDP (kế hoạch là 5,3%), thu ngân sách tăng, đáp ứng nhu cầu chi và dành một phần để tăng chi trả nợ.

Chính sách tiền tệ được xử lý chặt chẽ, linh hoạt và quyết đoán hơn đã góp phần tích cực cải thiện cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá. Ước tính cả năm, tổng dư nợ tín dụng tăng 12%, tổng phương tiện thanh toán tăng 12,5%; vốn tín dụng từng bước được ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; lãi suất tín dụng đã có xu hướng giảm; thị trường ngoại hối chuyển biến tích cực; mua bán ngoại tệ và kinh doanh vàng được kiểm soát khá chặt chẽ và bước đầu đã có kết quả. Nợ công được giữ ở mức an toàn (cuối năm 2011, ước tính khoảng 54,6% GDP). Xuất khẩu tăng cao, nhập khẩu được kiểm soát. Nhập siêu giảm mạnh, cả năm dự kiến khoảng 10 tỉ USD, bằng 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch (không quá 18%).

Tuy nhiên, năm 2011 vẫn ghi nhận những cú "sốc" kinh tế trên nhiều lĩnh vực, điển hình là việc dồn dập điều chỉnh tỷ giá và tăng giá xăng, dầu, điện, khống chế trần lãi suất huy động và hạn mức tín dụng, hạn chế đối tượng được tiếp cận giao dịch tín dụng ngoại tệ... nhằm giảm thiểu đối tượng đủ tiêu chuẩn được phép thực hiện nhiệm vụ độc quyền nhà nước về nhập khẩu, sản xuất và buôn bán vàng miếng. Bên cạnh đó, sự chênh lệch kéo dài giữa giá vàng trong và ngoài nước gây lúng túng cho ngân hàng, cũng như những băn khoăn cho người dân đối với việc cố gắng kiểm soát thị trường ngoại hối theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 23-2-2011 của Chính phủ.

Sự gia tăng nợ khó đòi của ngân hàng và đổ vỡ tín dụng đen cũng tạo điểm tối đáng ngại trong bức tranh tài chính Việt Nam năm 2011. Nợ xấu của khối ngân hàng thương mại tăng vọt. Tính đến cuối tháng 10-2011, mức nợ đã lên tới 76.000 tỉ đồng (chiếm trên 3,5% tổng dư nợ), trong đó 47% là nợ khó đòi. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm tới 60% tổng dư nợ và 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Những vụ đổ vỡ tín dụng đen bùng nổ trên nhiều địa phương cả nước, nhất là ở các đô thị lớn vào những tháng cuối năm 2011, cũng làm tăng sự e ngại về độ an toàn của thị trường tín dụng trong nước...

Thị trường bất động sản tuy đã hạ giá từ 30-40%, thậm chí 50% so với giá đỉnh cao, nhưng vẫn khó tìm khách hàng đến với những chung cư cao cấp và nhà liền kề, biệt thự vốn bị bỏ hoang cả năm nay. Trên thị trường chứng khoán, có những cổ phiếu rớt giá, chỉ còn không đến 600 VNĐ/cổ phiếu, nhưng ngược lại, đa số hàng hóa và dịch vụ khác lại đồng loạt tăng giá theo mức lạm phát...

Số lượng doanh nghiệp thua lỗ tăng vọt bất thường. Năm 2011, cứ 10 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, thì có 9 doanh nghiệp cũ bị giải thể, sáp nhập hoặc dừng hoạt động vì thua lỗ và không có tiền nộp thuế... Thậm chí, có tới 450/495 doanh nghiệp đang niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung báo lỗ; khoảng 50% doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng hơn một nửa số làng nghề trên cả nước bị tê liệt vì lãi suất cao và khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

Dự báo triển vọng tài chính năm 2012

Trên quy mô  toàn cầu, theo dự báo của các tổ chức chuyên nghiệp có uy tín, năm 2012 (nhất là trong nửa đầu năm, đặc biệt quý II), nhìn chung, tình hình kinh tế, tài chính và xã hội trên phạm vi thế giới, cũng như quốc gia và mỗi ngành, tín hiệu màu xám sẽ nhiều hơn năm 2011. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ khó có bùng nổ mới. Thị trường bất động sản và chứng khoán tiếp tục trì trệ. Khủng hoảng nợ công toàn cầu vẫn phủ bóng đen lên nền kinh tế của hầu hết các nước; tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, lạm phát cao tại nhiều quốc gia phát triển, đang phát triển và mới nổi; xu hướng bảo hộ kỹ thuật các thị trường xuất khẩu quốc tế quan trọng của Việt Nam có khả năng tiếp tục đậm hơn... Đặc biệt, giá vàng sẽ tiếp tục biến động mạnh, nhiều đồng tiền chủ chốt trên thế giới tiếp tục xu hướng yếu và yếu hơn.

Ngày 20-9-2011, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới xuống còn 4% cho 2 năm 2011 và 2012, thấp hơn 0,3% so với dự báo đưa ra vào tháng 6-2011. Liên tiếp sau đó, Citigroup, Fitch và Goldman Sachs cũng điều chỉnh mức dự báo cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Citigroup, ngày 29-9-2011, đưa ra dự báo, tăng trưởng GDP của thế giới sẽ giảm xuống 3% trong năm 2011 và 2,9% trong năm 2012. Đây là lần thứ 2 tổ chức này hạ mức dự báo trong vòng chưa đầy một tháng. Trong khi Goldman Sachs cho rằng, tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2011 sẽ ở mức 3,8% và 3,5% trong năm 2012; đồng thời dự báo, giá dầu thế giới cuối 2011 sẽ giảm 6% và giảm 12% vào năm 2012 do nhu cầu nhiên liệu giảm trong hoàn cảnh kinh tế thế giới lâm vào suy thoái. Kém lạc quan hơn, hãng xếp hạng tín nhiệm của Pháp Fitch dự báo, tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2011, có nhiều khả năng sẽ chỉ ở mức 2,6%, thay vì con số 3,1% do chính hãng này đưa ra hồi đầu năm 2011. Tuy nhiên, mức giảm mạnh nhất sẽ rơi vào năm 2012 khi tốc độ tăng GDP toàn cầu chỉ ở con số 2,7%, giảm tới 0,7% so với dự báo trước đó.

Thêm vào đó, tại châu Á - nơi tăng trưởng kinh tế và đầu tư đang phục hồi, cũng đang được Tổng Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Juan Somavia cảnh báo rằng “những đám mây đen đang tụ lại trên bầu trời kinh tế” khu vực này. Nền kinh tế châu Á mở cửa hơn so với bất cứ thời điểm nào trước đây, sự mở cửa này có tác động tích cực nhưng cũng tiềm ẩn các tác động tiêu cực khi nền kinh tế toàn cầu đang có nguy cơ trở lại suy thoái.

Ở Việt Nam, tình hình tài chính thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Giá nhiều mặt hàng tiêu dùng điện và điện tử sẽ có xu hướng giảm, nhất là những mặt hàng trong diện giảm thuế theo lộ trình hội nhập của Việt Nam trong khuôn khổ Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng như các thỏa thuận thương mại đặc biệt khác.... Giá lương thực, thực phẩm, giá dầu thô và nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế có thể tăng cao dần; thị trường chứng khoán tiếp tục trầm lắng và trì trệ...

Cùng với những tác động không thuận từ bên ngoài, Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăn và thách thức trong nước về tài chính và thị trường, có thể còn lớn hơn và khó lường hơn so với dự báo. Trước mắt, việc tăng giá xăng, dầu, điện và than như năm 2011 sẽ khó có khả năng xảy ra, tuy nhiên, sự hạ giá trên thị trường bất động sản và chứng khoán sẽ còn tiếp diễn. Lạm phát và mặt bằng lãi suất có thể vẫn ở mức khá cao. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng có thể sẽ tiếp tục gia tăng áp lực. Sản xuất kinh doanh vẫn đứng trước nhiều rào cản chưa dễ tháo gỡ ngay, mặc dù đã có những dấu hiệu nới lỏng tín dụng từ phía ngân hàng. Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô có thể trở thành thách thức lớn hơn nếu không có những giải pháp quyết liệt, hiệu quả.

Điểm nhấn nổi bật đối với tài chính Việt Nam năm 2012 là sự tiếp nối nhất quán các xu hướng chủ trương, điều hành và chính sách đang thực hiện năm 2011, và có thể sẽ có sự cải thiện đáng kể một số chỉ tiêu kinh tế - tài chính vĩ mô, như: mức lạm phát, lãi suất, cân đối ngân sách, tổng vốn đầu tư ngân sách và tín dụng ngân hàng vào lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, cũng như sự gia tăng quy mô và vai trò đầu tư tư nhân trong tổng đầu tư xã hội…

n định kinh tế - tài chính vĩ mô trong năm 2012 - nền tảng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn 2011 - 2015

Chính phủ khẳng định, trong năm 2012, việc ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô được xác định là nền tảng quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong cả giai đoạn 2011 - 2015, với các trọng tâm là kiểm soát lạm phát, bình ổn thị trường giá cả, cải thiện cán cân thanh toán và phấn đấu giảm bội chi ngân sách; thực hiện nhất quán chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu; từ dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động chất lượng thấp sang dựa vào hiệu quả, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại; tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt theo tín hiệu thị trường, bảo đảm tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ tín dụng hàng năm không vượt quá mức đã được Nghị quyết 11/NQ-CP đề ra; duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý; kiểm soát chặt việc cho vay kinh doanh bất động sản và kinh doanh chứng khoán; kiểm soát nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng; tăng cường quản lý các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII); hoàn thiện cơ chế huy động các nguồn lực để thực hiện các đột phá theo một lộ trình hợp lý, đa dạng các hình thức đầu tư theo các cơ chế BOT, BT, BTO...

Trên cơ sở đó, 3 lĩnh vực trọng tâm được xác định trong năm 2012, gồm: tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công; tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn và tổng công ty; tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền tệ, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các định chế tài chính; cụ thể:

Thứ nhất, tăng cường quản lý đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ và kiểm soát chặt chẽ đầu tư của DNNN. Đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư, kiên quyết tập trung vốn cho các công trình dự án cấp thiết, sớm hoàn thành và nhanh chóng đưa vào sử dụng để phát huy hiệu quả. Ưu tiên bố trí vốn cho các công trình đã hoàn thành và đã đưa vào sử dụng, các công trình cần thiết phải hoàn thành trong năm 2012 và vốn đối ứng cho các dự án ODA. Các dự án, công trình khởi công mới cần được kiểm soát chặt chẽ, xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm hiệu quả và đủ thủ tục đầu tư. Thực hiện cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn. Chú trọng tái cơ cấu đầu tư của khu vực dân doanh và FDI thông qua việc hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, định hướng thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng quy hoạch và kiên quyết thực hiện đầu tư theo quy hoạch. Quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA một cách có hiệu quả.

Thứ hai, tái cấu trúc khu vực DNNN sẽ được quan tâm và hy vọng có những chuyển biến mới. Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cần tập trung vốn đầu tư vào các ngành nghề sản xuất, kinh doanh chính, không đầu tư ngoài ngành, nhất là đầu tư vào các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, bất động sản, chứng khoán. Đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trước đây đã đầu tư vào các lĩnh vực này phải sớm có kế hoạch thoái vốn, tiến tới chấm dứt kinh doanh, muộn nhất vào năm 2015. Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và sắp xếp lại các DNNN, đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chỉ tập trung vào những ngành nghề kinh doanh chính, kiên quyết thực hiện thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần chi phối và thoái vốn đã đầu tư vào các hoạt động ngoài ngành kinh doanh chính. Đổi mới mô hình tổ chức và quản trị tại các DNNN nắm giữ 100% vốn; đồng thời, hoàn thiện các quy định về quyền đại diện chủ sở hữu và người quản lý trong doanh nghiệp có vốn nhà nước, cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, cơ chế giám sát, kiểm tra và chế tài xử lý. Thực hiện công khai kết quả hoạt động và đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đồng thời, có cơ chế, chính sách để thúc đẩy tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp dân doanh.

Thứ ba, tái cơ cấu các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính, tín dụng theo hướng tăng hợp lý về quy mô, giảm nhanh số lượng các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém; khuyến khích những ngân hàng có điều kiện phát triển, mở rộng phạm vi hoạt động, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng đủ sức cạnh tranh trong nước và quốc tế; kiểm soát chặt chẽ nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng thương mại. Quản lý có hiệu quả thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường vàng và thị trường ngoại hối. Từng bước giảm tỷ lệ cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại, tăng tỷ trọng huy động vốn từ thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp. Gia tăng các hoạt động bảo lãnh vốn vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đơn giản hóa các thủ tục vay vốn (nhất là thủ tục tín chấp, quy định về chứng thư bảo lãnh); điều chỉnh thời hạn cho vay vốn phù hợp với chu kỳ sản xuất... Đồng thời, sử dụng nhiều hơn các công cụ kinh tế (mua bảo hiểm tiền gửi bắt buộc ở mức cao và lũy tiến theo quy mô huy động tín dụng và sự lành mạnh của hoạt động tín dụng của ngân hàng; tăng các chế tài phạt tài chính nghiêm khắc đủ sức răn đe những vi phạm quản lý ngân hàng…), cùng với các công cụ hành chính (quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc và không chế hạn mức tín dụng…) để hướng ngân hàng vào các hoạt động tín dụng mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế.

Với tư cách là quá trình mở và có nội hàm rộng, công cuộc tái cấu trúc kinh tế cả ở cấp vĩ mô và vi mô trong thời gian tới là rất cần thiết, mặc dù sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức, cả mới và cũ. Chẳng hạn, khả năng huy động và sử dụng các công cụ và nguồn lực để giải quyết chúng có xu hướng co hẹp hoặc giảm, thậm chí mất đi lợi thế tương đối. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có những nhận thức mới và quyết tâm, cùng cách làm mới, trên cơ sở kiên định mục tiêu phát triển bền vững đã lựa chọn./.