Kinh tế số là động lực tăng trưởng quan trọng và một số kiến nghị với Quảng Ninh

GS, TS. Trần Thọ Đạt
Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng
07:06, ngày 27-05-2022

Song hành với sự phát triển mạnh mẽ mang tính gắn kết giữa các công nghệ số hóa và kinh tế số, sự xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng của các hình thức kinh doanh mới dựa trên công nghệ số đã tạo nên sự thay đổi to lớn và nhanh chóng trong kinh tế, xã hội và mọi mặt của đời sống con người. Xu hướng số hóa nền kinh tế và các hoạt động xã hội đang diễn ra rất nhanh ở nhiều quốc gia, đặc biệt tại một số nước đi đầu và các nước đang phát triển. Kinh tế số đã trở thành một bộ phận đóng góp ngày càng nhiều trong tổng sản phẩm của các quốc gia. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang phát triển mạnh mẽ, kinh tế số ngày càng có vai trò quan trọng, đặc biệt trong quá trình phục hồi hậu COVID-19.

1. Khái niệm “nền kinh tế số”

Cho đến nay, kinh tế số đã trở thành một thuật ngữ có nhiều khái niệm và cách đo lường khác nhau. Theo nghĩa hẹp, kinh tế số chỉ bao gồm các lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông, trong khi nghĩa rộng hơn bao gồm các ngành nghề có mô hình kinh doanh gắn liền với công nghệ số và nền tảng số (các nền tảng trực tuyến, các dịch vụ hỗ trợ nền tảng như nền kinh tế chia sẻ, tài chính cộng đồng). Nghĩa rộng nhất của kinh tế số bao gồm toàn bộ mạng lưới các hoạt động kinh tế và xã hội dựa trên nền tảng số, các lĩnh vực kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng,…), chính phủ số, xã hội số.

Khái niệm “nền kinh tế số” theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng

Nguồn: Buhkt and Heeks

2. Dư địa tăng trưởng từ kinh tế số của Việt Nam còn rất lớn

Kinh tế số đang mở ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Kinh tế số hiện là động lực quan trọng để đưa nước ta sớm trở thành quốc gia có công nghệ hiện đại và sáng tạo, từ đó rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước khác. Việt Nam được coi là một nước có tiềm năng tăng trưởng kinh tế số mạnh mẽ và sẽ trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Mục tiêu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; mục tiêu cơ bản đến năm 2030 là kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.

Trong thời gian qua, nền kinh tế đã ghi nhận sự xuất hiện xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, các ngành kinh tế, từ ngân hàng, tài chính, thương mại, đến giáo dục, y tế…. Trong 10 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Mặc dù chưa có số liệu chính thức, nhưng ước tính từ nhiều nguồn, kinh tế số hiện nay ở Việt Nam đang chiếm khoảng 8,2% GDP. Theo Báo cáo “Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045” (Tổ chức Data61 - Úc), GDP Việt Nam có thể tăng thêm hàng năm từ 0,38 đến 1,1% tùy vào các kịch bản khác nhau của chuyển đổi số.

Các yếu tố cấu thành kinh tế số tại Việt nam hiện đang có những dự địa tăng trưởng khác nhau. Kinh tế số lõi ICT đang chiếm khoảng 4,5% GDP toàn cầu, khoảng 6,9% GDP của Mỹ và 7% GDP Trung Quốc. Với Việt Nam, kinh tế số ICT ước tính đang chiếm khoảng 5,5 % GDP cả nước, cao hơn mức bình quân toàn cầu 1%.

 

 

Về cấu phần kinh tế số Internet/kinh tế nền tảng hiện nay ở Việt Nam ước tính chỉ mới khoảng 1,7% GDP, rất thấp so với trung bình toàn cầu là 15% GDP toàn cầu, và so với 21% GDP của Mỹ và 30% GDP Trung quốc, do vậy dự địa tăng trưởng còn lớn.

Về cấu phần kinh tế số ngành, lĩnh vực thường chiếm khoảng 10% GDP toàn cầu. Ở Việt Nam, kinh tế số ngành, lĩnh vực ước tính hiện chiếm khoảng 1,7% GDP, cũng cho thấy kinh tế số internet Việt Nam còn dư địa phát triển rất lớn.

Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số tại Việt Nam. Trong 20 năm, tỉ lệ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến mới đạt 12%, nhưng chỉ 1 quý trong dịch COVID-19, tỉ lệ này đã tăng gấp đôi, lên 24%. Việt Nam có 80% học sinh, sinh viên học trực tuyến, cao hơn trung bình của OECD (hơn 60%). Theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia, đến 2025 kinh tế số chiếm 20% GDP, trong từng ngành đạt 10%, năng suất lao động tăng 7%. Đây là mục tiêu rất thách thức bởi nếu theo kịch bản thông thường, đến 2025 kinh tế số Việt Nam chỉ đạt khoảng 10,5% GDP.

  1. Cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh kinh tế số

Mặc dù năng suất lao động tổng thể của nước ta tăng đều qua các năm nhưng nhìn chung hiệu suất lao động của toàn nền kinh tế còn rất thấp và khoảng cách tuyệt đối về năng suất lao động với các nước trong khu vực vẫn còn khá xa. Phân tích định lượng trong giai đoạn 2012 - 2017, xét về tổng thể cho thấy ảnh hưởng của kinh tế số đến năng suất lao động Việt Nam rất khiêm tốn với tỉ lệ tăng trưởng đạt 5,3%, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác; tuy nhiên, có thể thấy đây là giai đoạn phát triển ban đầu của kinh tế số tại Việt Nam. Các động lực trước đây nhằm duy trì mức tăng năng suất lao động đang dần cạn kiệt và thiếu hiệu quả, kinh tế số được kỳ vọng sẽ là một động lực mới cho cải thiện năng suất lao động trong giai đoạn tới. Đến năm 2019, Việt Nam đã dần thu hẹp được khoảng cách tuyệt đối về năng suất lao động với các nước ASEAN khác có trình độ phát triển cao hơn. Như vậy, khi kinh tế số và chuyển đổi số trên đà tăng trưởng sẽ làm thay đổi cơ bản hiệu quả và năng suất của nhiều ngành kinh tế.

Xét theo ngành:

Dưới tác động của công nghệ, vai trò của kinh tế số trong năng suất lao động thuộc các ngành nông, lâm, thủy sản còn rất hạn chế. Tác động của kinh tế số đối với ngành chế biến chế tạo cũng không cao, thấp hơn mức trung bình chung của cả nước. Kết quả này cũng phù hợp với đánh giá về mức độ ứng dụng công nghệ số của ngành chế biến chế tạo còn khá khiêm tốn hiện nay. Một số ngành kinh tế khác như vận tải, bán buôn - bán lẻ, lưu trú - ăn uống, tài chính - ngân hàng, bất động sản và một số ngành dịch vụ như y tế, giáo dục… tác động của công nghệ số còn ở mức thấp, chỉ tương đương so với trung bình chung cả nước. Tác động của kinh tế số đến năng suất lao động của ngành công nghệ thông tin - truyền thông cao hơn mức trung bình chung của toàn nền kinh tế, và cao nhất trong 9 ngành; điều này phản ánh ngành này đã sớm triển khai tận dụng công nghệ số để nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó, ngành khoa học công nghệ cũng tận dụng được những lợi ích công nghệ số mạng lại với mức độ tác động của kinh tế số đến nâng suất lao động chỉ xếp sau ngành công nghệ thông tin - truyền thông.

Xét theo khu vực sản xuất:

Tác động của kinh tế số đến năng suất lao động ở các khu vực sản xuất cũng không giống nhau. Khu vực kinh tế hợp tác xã có hệ số tác động của công nghệ số là thấp nhất, thấp hơn nhiều mức chung của cả nước. Khu vực kinh tế nhà nước có tác động của kinh tế số đến năng suất lao động ở mức thấp hơn hoặc tương đương mức trung bình của cả nước đã cho thấy mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp nhà nước đối với quá trình số hoá là chưa cao. Trong khi đó, trong khu vực kinh tế tư nhân, công nghệ số được khẳng định là yếu tố có tác động mạnh hơn các khu vực khác; điều này đã cho thấy sự chủ động của các doanh nghiệp này trong việc ứng dụng công nghệ số nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kết quả phân tích cũng cho thấy tác động tích cực của công nghệ số đối với năng suất lao động của khu vực cá thể, tuy nhiên mức tác động rất nhỏ và thấp hơn so với các khu vực chính thức.

Dự báo năng suất lao động theo kịch bản phát triển kinh tế số tới năm 2030

Theo một nghiên cứu về năng suất lao động hiện nay ([1]), ở kịch bản gốc chưa tính đến tác động của kinh tế số, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân là 5,7%/năm (giai đoạn 2020 - 2025) và 5,9%/năm (giai đoạn 2025 - 2030). Dựa trên bốn kịch bản phát triển kinh số trong Báo cáo “Tương lai nền Kinh tế số của Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045”, nghiên cứu này với phương pháp tính toán theo mô hình kinh tế “hàm sản xuất truyền thống” đã ước tính đóng góp của kinh tế số đến năng suất lao động giai đoạn 2020 - 2030, trung bình mỗi năm, chỉ riêng kinh tế số đóng góp từ 7-16,5% trong 100% tốc độ tăng trưởng năng suất lao động tổng thể. Như vậy, có thể thấy kinh tế số là một phần đóng góp quan trọng trong năng suất và hiệu quả của nền kinh tế, và là một động lực mới cho cải thiện nhanh chóng năng suất lao động.

Thay đổi năng suất lao động theo kịch bản phát triển kinh tế số so với kịch bản gốc (Đơn vị: triệu đồng/lao động, giá so sánh 2010)

Nguồn: Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (2020)

4. Việc làm trong nền kinh tế số

Theo Ngân hàng Thế giới, nền kinh tế Việt Nam hưởng lợi từ quá trình số hóa nhanh chóng đến mức độ nào phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường lao động. Theo ước tính, Việt Nam đang tụt hậu xa so với các đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực về các kỹ năng số hiện có. Nếu Việt Nam tụt hậu do không đáp ứng được yêu cầu về số lượng lao động có tay nghề cao trong quá trình chuyển đổi số nhanh chóng, nền kinh tế có thể mất tới 2 triệu việc làm vào năm 2045. Do vậy, muốn thành công trong quá trình chuyển đổi số cần phải tập trung nguồn lực nâng cao kỹ năng số của lực lượng lao động trong nước. Vậy việc nâng cao kỹ năng cho người lao động phụ thuộc vào các yếu tố nào? Về lý thuyết, thị trường lao động sẽ điều chỉnh dần khi nhu cầu về lao động có tay nghề tăng cao sẽ làm tăng mức lương tương đối, từ đó khuyến khích người lao động và doanh nghiệp gia tăng đầu tư vào giáo dục và đào tạo, nhưng việc thích ứng này có độ trễ nhất định. Về phía người lao động thường không có tài chính để đầu tư vào các chương trình đào tạo dài hạn, trong khi các doanh nghiệp có thể không muốn đầu tư vào đào tạo nhân viên vì lo ngại trình trạng “nhảy việc” sang đối thủ cạnh tranh.

Do đó, Chính phủ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ cho người lao động và đáp ứng nhu cầu đang ngày một tăng của doanh nghiệp về lao động có tay nghề. Đồng thời, thị trường lao động cần được thiết kế linh hoạt hơn, cho phép người lao động có thể dễ dàng chuyển từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Tạo điều kiện thuận lợi để những người lao động có chuyên môn cao gia nhập hoặc quay trở lại làm việc và hỗ trợ các doanh nghiệp và người lao động về tài chính trong quá trình đào tạo những kỹ năng mới.

5. Chính sách thúc đẩy kinh tế số và chuyển đổi số

Những năm gần đây, các hoạt động kinh tế số đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và được Đảng, Chính phủ quan tâm, ưu tiên phát triển. Tháng 9-2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20%, và đến năm 2030 đạt 30% GDP. Ngày 3-6-2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với một số chỉ số cơ bản và cụ thể, trong đó năng suất lao động tăng bình quân 7% đến năm 2025 và 8% đến năm 2030. Để đạt được những mục tiêu này, cần có sự bứt tốc ngay từ năm 2021 - năm khởi đầu của việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021  -2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm.

Để khai thác tiềm năng, phát triển kinh tế số, đạt được các mục tiêu đã đề ra, xây dựng nền tảng để kinh tế số phát triển, bắt đầu tăng tốc trong năm 2021 và các năm tiếp theo, cần triển khai một số giải pháp sau:

Trước hết, sớm hoàn thiện khung thể chế, cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo phù hợp với các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số, đặc biệt là các mô hình và phương thức kinh doanh kiểu mới để kinh tế số sớm tăng quy mô và gia tăng tỷ trọng đóng góp trong tăng trưởng nói chung. Các chính sách về kinh tế số cần bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất trong triển khai và thực hiện các kế hoạch, chương trình về kinh tế số. Cần có những chính sách về: (i) khuyến khích phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp “lõi” trong kinh tế số, chuyển đổi số như các doanh nghiệp chuyển giao và ứng dụng các công nghệ mới; (ii) ưu đãi thuế cho các lĩnh vực phần mềm, khu công nghệ cao, công viên phần mềm; và (iii) khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới, thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

Thứ hai, sớm đưa ra một định nghĩa “kinh tế số” được thống nhất rộng rãi, đạt được đồng thuận cao; từ đó đo lường kinh tế số một cách nhất quán để so sánh và xây dựng các giá trị kinh tế số “cơ sở” của một năm, làm căn cứ cho việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế số về quy mô và tốc độ phát triển.

Trên thực tế, sự bùng nổ của các công nghệ số kéo theo sự hình thành và phát triển đa dạng các hình thức, chiến lược và giải pháp kinh doanh mới dựa trên công cụ số đã che mờ đi nhiều khía cạnh tác động của công nghệ số và kinh tế số tới nền kinh tế. Điều này đặt ra các thách thức lớn trong việc đo lường về kinh tế số. Theo Báo cáo nền kinh tế số Đông Nam Á 2020, kinh tế số Việt Nam đạt khoảng 14 tỷ USD năm 2020 và dự kiến 52 tỷ năm 2025, con số này cách khá xa so với mục tiêu hiện nay Việt Nam đang đặt ra là kinh tế số chiếm 20% GDP, sự khác biệt này có liên quan chủ yếu đến phạm vi đo lường kinh tế số.

Về năng suất lao động, mục tiêu của Chương trình Chuyển đổi số quốc gia là đến năm 2025, hằng năm tăng tối thiểu 7% và 8% đến năm 2030, con số này cũng cao hơn hẳn so với các dự tính về tốc độ tăng năng suất lao động và đóng góp đối với tăng trưởng năng suất lao động trong các kịch bản kinh tế số và chuyển đổi số hiện nay. Điều này cũng đặt ra các thách thức lớn trong việc cải thiện cấu trúc các mô hình kinh tế lượng truyền thống hiện nay trong việc phân tích tác động toàn diện và đầy đủ của kinh tế số đến tăng trưởng năng suất lao động.

Thứ ba, gia tăng đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nhằm nâng cấp đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ số thiết yếu và rộng khắp, bao quát mọi ngõ ngách của nền kinh tế và đến từng công dân, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng, nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu một cách đồng bộ, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp được sử dụng những tiện ích do kinh tế số mang lại. Chính phủ cần tạo dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số để các doanh nghiệp hòa nhập và nắm bắt được xu hướng và thế mạnh của kinh tế số.

Thứ tư, nâng cao nhận thức về phát triển nền kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho khả năng thích ứng các xu hướng phát triển này đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, tối ưu hóa mô hình kinh doanh, phát triển kỹ năng mới cho từng cá nhân và tổ chức, sớm triển khai tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, năng cao năng lực quản trị phù hợp với những mô hình sản xuất, kinh doanh và hợp tác mới.

Thứ năm, khi tham gia vào thị trường lao động trong nền kinh tế số, người lao động phải đổi mới để thích nghi với các kỹ năng, kiến thức và các phương thức kinh doanh truyền thống trước đây nay đang dần chuyển sang môi trường số. Nhìn dài hạn hơn, cần phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi, phát triển; từ đó thúc đẩy tư duy sáng tạo, đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo với việc thay đổi từ quản lý giáo dục, phương pháp dạy, giáo trình dạy và các môn hoc mới gắn với số hóa. Kỹ năng số cần được giới thiệu tới lứa tuổi trẻ hơn, từ cấp mầm non và nâng dần mức độ cho các lứa tuổi ở cấp độ học cao hơn. Triển khai các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành và đội ngũ quản trị các cấp của doanh nghiệp.

Thứ sáu, hiểu biết một cách đúng đắn và toàn diện cả về lợi ích cũng như về thách thức đối với kinh tế số là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế số theo con đường tối ưu nhất có thể được. Một thách thức của kinh tế số là góp phần làm sâu sắc thêm phân hóa giàu - nghèo trong xã hội, vì các cơ hội “làm giàu” từ kinh tế số sẽ tùy thuộc vào năng lực thích ứng vốn rất khác nhau của các tác nhân trong nền kinh tế.  Ngoài ra, vấn đề thuế kinh tế số như là một hệ quả từ thách thức đo lường kinh tế số, tính đa dạng và sự cải tiến không ngừng các hình thức kinh doanh số sẽ làm gia tăng độ phức tạp của vấn đề thuế đối với kinh tế số trong việc thực hiện bài toán công bằng và hiệu quả.

Cuối cùng, với tốc độ phát triển mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, đặc biệt ở khu vực rất năng động là châu Á, kinh tế số đang tạo ra những cơ hội hiếm có để Việt Nam có thể tận dụng trong bứt tốc phát triển kinh tế đất nước, nhưng đồng thời cũng đặt ra các thách thức lớn mà nếu không vượt qua sẽ ngày càng tụt hậu. Kinh tế số được xác định là động lực phát triển quan trọng để đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trở thành quốc gia có công nghệ phát triển, là động lực tăng trưởng rất quan trọng trong những năm tới, góp phần gia tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng. Nhiều chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng, phát triển kinh tế số và đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia là phương thức để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, là cách thức để Việt Nam vẽ lên một tương lai phát triển không chỉ đơn giản là tiếp nối xu hướng của quá khứ mà là đưa nền kinh tế bước vào một quỹ đạo tăng trưởng mới mang tính bứt phá. Trong quá trình phát triển kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia, chúng ta cần và có khả năng là người đi trước để rút ngắn khoảng cách với các nước, nếu chậm chân khi kinh tế số và chuyển đổi số đã trở thành phổ biến thì sẽ mất cơ hội vươn lên đi đầu làm chủ công nghệ, mất đi cơ hội thu hút người tài và chậm phát huy dư địa cho tăng trưởng bền vững.

6. Đề án chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số của Quảng Ninh

Một số kết quả đạt được của Quảng Ninh khi thực hiện Đề án

Ba năm gần đây nhất, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm 3 địa phương đứng đầu về chỉ số xếp hạng cạnh tranh và chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin. Từ năm 2017-2019, dẫn đầu về chỉ số PCI; đứng thứ 3 về chỉ số PAPI, chỉ số ICT năm 2019. Năm 2020 là năm đầu tiên Bộ Thông tin và Truyền thông áp dụng chỉ số chuyển đổi số (DTI) của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Quảng Ninh đã xếp thứ 4 trong bảng xếp hạng này.

Từ nền tảng của Chính quyền điện tử, từ năm 2016, tỉnh đã triển khai Đề án xây dựng thành phố thông minh, những nhiệm vụ, giải pháp để cụ thể hóa các mục tiêu về thành phố thông minh bắt đầu được triển khai. Quảng Ninh được đánh giá là một trong những địa phương có mô hình kiến trúc chính quyền điện tử phù hợp với hướng dẫn của các bộ, ngành chuyên môn và sát với thực tế giai đoạn mới. Mô hình Trung tâm Điều hành thông minh tỉnh Quảng Ninh - nơi được coi là "bộ não số" của mô hình thành phố thông minh. Cùng với đó là hàng loạt các tiện ích số trong các ngành, lĩnh vực trọng điểm như: Y tế thông minh với mô hình 3 bệnh viện thông minh; giáo dục thông minh với 46 trường - 551 lớp học, phòng học tiên tiến, thông minh...

Đề án chuyển đổi số và một số khuyến nghị

Đề án Chuyển đổi số toàn diện tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 là một trong 15 đề án trọng tâm và đã đưa vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Chương trình hành động số 01/CTr-TU ngày 9-10-2020 của Tỉnh ủy. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đặt mục tiêu là phải xây dựng Đề án Chuyển đổi số toàn diện của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025 với cách tiếp cận bám sát 6 quan điểm lớn được thể hiện trong Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, theo 3 trục: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, kinh tế số được xác định là đột phá, cần được tập trung lãnh đạo chỉ đạo hoàn thành với mục tiêu đặt ra đến năm 2025, kinh tế số phải đạt 20% GRDP và đến năm 2030, kinh tế số phải đạt 30% GRDP của tỉnh, là một trong những chỉ tiêu quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch mô hình phát triển từ “nâu” sang “xanh”. Đề án xác định rõ việc ưu tiên tập trung nguồn lực triển khai chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh của tỉnh, mang lại các giá trị mới, thiết thực cho người dân, doanh nghiệp. Trong đó, các lĩnh vực tập trung chuyển đổi số sẽ gồm: Y tế, giáo dục, du lịch, giao thông vận tải, logistics, sản xuất công nghiệp, tài chính - ngân hàng, tài nguyên môi trường, năng lượng, nông nghiệp, báo chí truyền thông, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Mô hình chuyển đổi số hiện đang được thí điểm triển khai tại huyện Cô Tô, dự kiến cuối năm nay, mô hình sẽ được sơ kết, rút kinh nghiệm, làm cơ sở để triển khai chuyển đổi số toàn diện trên địa bàn tỉnh.

Một số khuyến nghị

- Quảng Ninh cần xác định mục tiêu tổng quát về chuyển đổi số là để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo nền tảng vững chắc để Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, chuyển từ phương thức phát triển “nâu” sang “xanh”.

- Các mục tiêu trong Đề án đối với Quảng Ninh cần đạt mức cao hơn mức trung bình của toàn quốc (kinh tế số phải đạt 20% GRDP năm 2025 và đến năm 2030, kinh tế số phải đạt 30% GRDP của tỉnh), trên cơ sở đó có các mục tiêu tăng trưởng của các ngành và lĩnh vực, tạo ra các giá trị tăng trưởng mới từ kinh tế số, tận dụng cơ hội từ thách thức COVID-19 để triển khai xã hội số. Đồng thời, Quảng Ninh gắn chuyển đổi số với các yếu tố đảm bảo an toàn, an ninh mạng và phấn đấu đưa Quảng Ninh đi đầu về đảm bảo an toàn an ninh mạng.

- Quảng Ninh cần ưu tiên, tập trung nguồn lực triển khai chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh của tỉnh, mang lại các giá trị mới, thiết thực cho người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, gồm: y tế, giáo dục, du lịch, giao thông vận tải và logistics, sản xuất công nghiệp, tài chính - ngân hàng, tài nguyên môi trường, năng lượng, nông nghiệp, báo chí truyền thông, an ninh trật tự, an toàn xã hội… Cần xác định tốc độ tăng trưởng về kinh tế số và năng suất lao động trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể của tỉnh.

- Quảng Ninh cần chuyển nhanh từ chính quyền điện tử sang chính quyền số và cách tiếp cận triển khai chuyển đổi số toàn diện của tỉnh theo 3 trục: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Cần huy động và có nhiệm vụ cụ thể cho 6 chủ thể sẽ tham gia chuyển đổi số để tăng cường tính toàn diện gồm: cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, khối đoàn thể, khối chính quyền, doanh nghiệp và người dân, trong đó, “điểm nhấn của Quảng Ninh trong chuyển đổi số được xác định là chuyển đổi số phải đi đầu trong các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội”.

- Cần kiên trì và quyết liệt triển khai thực hiện Đề án Thành phố thông minh. Đến nay, tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, phần mềm nền tảng cho thành phố thông minh; xây dựng hệ thống ứng dụng thông minh trên các lĩnh vực hỗ trợ công tác quản lý, điều hành, đa dạng hóa dịch vụ thông minh, giao thông thông minh, du lịch thông minh, an ninh trật tự..., hướng tới lấy con người làm trung tâm trong phát triển các dịch vụ đô thị thông minh. Cùng với đó, Quảng Ninh cần xác định phải tập trung xây dựng chính quyền số; ưu tiên việc xây dựng dữ liệu nền tảng; nguồn lực thực hiện theo hình thức hợp tác công - tư.

Thực hiện thành công Đề án chuyển đổi số sẽ là một đóng góp quan trọng để Quảng Ninh trở thành một tỉnh văn minh, giàu mạnh, là môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống với những giá trị thiết thực cho người dân.

------------------------

[1] Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (chủ biên): “Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên - 2019: Cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh kinh tế số”, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, 2020