Đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
TCCS - Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định tầm quan trọng đặc biệt của tư duy lý luận. Ph.Ăng-ghen từng nhấn mạnh: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”(1). Công cuộc đổi mới và sự phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng gắn liền với sự phát triển lý luận cách mạng và thể hiện sinh động ở sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư duy lý luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và thường được thể hiện ra ở các giả thuyết, các lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau. Thực tiễn cho thấy, việc đổi mới và phát triển tư duy lý luận là nhân tố mang tính quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, nhất là trong những lúc cam go, bước ngoặt của lịch sử.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI của Đảng đã phê phán những sai lầm chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chủ quan, không tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đại hội kiên quyết đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế, coi đổi mới tư duy là khâu “đột phá” cho toàn bộ quá trình đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Đảng ta khẳng định: “Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”(2). Nhờ chọn đúng khâu đột phá mà Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức và “đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”(3).
Là đảng duy nhất cầm quyền, có trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội, mà trước hết là đổi mới tư duy lý luận để nâng cao trình độ và năng lực lý luận của Đảng cầm quyền. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn mới đang đặt ra đối với đổi mới tư duy lý luận của đảng… Đặc biệt, trước yêu cầu “không thể để kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn. Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”(4), “phải có tầm nhìn vượt trước”(5), càng đòi hỏi sự nỗ lực nhiều hơn nữa của đội ngũ lý luận trên cả nước.
Công cuộc đổi mới hơn 36 năm qua đã thực sự thể hiện năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới và quá trình thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta từng bước hoàn thiện và hiện thực hóa lý luận về đường lối đổi mới đất nước. Đây là sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của nước ta; là sự phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn đất nước và xu thế thời đại, trên cơ sở đúc kết những bài học thành công và thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, kế thừa có chọn lọc tinh hoa, giá trị văn hóa và các thành tựu phát triển của nhân loại. Có thể khẳng định, tư duy lý luận của Đảng ta ngày càng phát triển, kết quả nghiên cứu lý luận từng bước đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị, “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”, các chương trình, đề tài, đề án tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã chú trọng bám sát yêu cầu của thực tiễn, tập trung nghiên cứu, giải đáp và làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn đặt ra, những vấn đề lý luận mới, khó, còn nhiều ý kiến khác nhau, nhất là về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dân chủ xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Trong thời gian qua, việc triển khai thực hiện có hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã góp phần làm chuyển biến nhận thức, tư duy lý luận của Đảng trên một số nội dung quan trọng, cụ thể là:
Một là, mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng.
Hai là, khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam. Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển.
Ba là, khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện mô hình tổ chức của Nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Bốn là, nhận thức sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của Đảng; vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ…
Năm là, quán triệt sâu sắc phương châm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội; hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy” trên cơ sở xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển quan trọng, Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia được xây dựng.
Sáu là, hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; chú trọng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Bảy là, nghiên cứu, bổ sung nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nghiên cứu cụ thể hóa biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thành 27 biểu hiện; vấn đề nêu gương của người đứng đầu; vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm kỷ cương xã hội; nghiên cứu những tư tưởng, học thuyết mới, tiến bộ trên thế giới...
Cùng với những thành tựu đạt được, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận, tư duy lý luận của Đảng nhiều mặt vẫn còn hạn chế, “công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu; một số vấn đề mới, phức tạp chưa được làm sáng tỏ”(6).
Bối cảnh quốc tế tiếp tục có những diễn biến mới, phức tạp, khó lường. Cùng với đó, mục tiêu phát triển đất nước đến những cột mốc trọng đại năm 2025, 2030, 2045 là lớn lao, để đạt được đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm rất lớn của toàn Đảng, toàn quân và nhân dân ta. Điều này càng đòi hỏi tư duy lý luận của Đảng ta phải có những bước đổi mới và phát triển ngang tầm, không cho phép sự lạc hậu của lý luận là lực cản, làm trì trệ hay kéo lùi sự phát triển; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận càng phải được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt, những cuộc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận lớn trong thời gian tới, như tổng kết 40 năm công cuộc đổi mới (1986 - 2026), góp phần hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh 1991... đặt ra nhiều thách thức, nhưng cũng là cơ hội để Đảng ta đổi mới, phát triển tư duy lý luận, trí tuệ và năng lực cầm quyền, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Sự đổi mới tư duy lý luận của Việt Nam, một mặt đặt nền tảng lý luận cần thiết cho quá trình đổi mới thực tiễn; mặt khác, là sản phẩm của chính quá trình này. Để hình thành nên tư duy mới ấy, nhiệm vụ cấp thiết phải làm là kết hợp một cách biện chứng những nguyên lý lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống và tinh hoa văn hóa dân tộc, với những nhận thức mới về thế giới hiện đại, về con đường phát triển mang các sắc thái đặc thù của thời đại và dân tộc. Điều này rất quan trọng vì tư duy mới đó được hình thành từ chính thực tiễn sáng tạo của dân tộc Việt Nam.
Để thúc đẩy hiệu quả hoạt động nghiên cứu lý luận, góp phần vào quá trình đổi mới, phát triển tư duy lý luận của Đảng, cần tập trung thực hiện một số yêu cầu, nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy đảng về vị trí, vai trò của công tác nghiên cứu lý luận. Từ đó, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về công tác nghiên cứu lý luận theo tinh thần của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất trong định hướng nghiên cứu lý luận phục vụ xây dựng, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; tổng kết thực tiễn những vấn đề lý luận lớn, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương; phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu ở địa phương, đơn vị đối với công tác lý luận.
Thứ hai, nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn để phục vụ công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp phát triển đất nước; tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, định hướng chính sách; giữa các cơ quan nghiên cứu khoa học và các cơ quan quản lý xã hội; giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương với yêu cầu tổng kết thực tiễn ở cấp địa phương.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược, đi vào nền nếp, nhất quán từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương.
Thứ tư, củng cố các cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận. Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp giữa các cơ quan có chức năng định hướng, quản lý, tham mưu, tư vấn, nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục về lý luận chính trị; đẩy mạnh cơ chế đặt hàng của cấp ủy, chính quyền, địa phương với các cơ quan nghiên cứu lý luận.
Thứ năm, thực hiện nghiêm quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Đây là một chủ trương đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng ta. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện nghiêm Quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của các tổ chức và cá nhân”(7). Quy định về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị tại các cơ quan Đảng, Nhà nước (Quy định số 285-QĐ/TW, ngày 25-4-2015) ghi rõ: “Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân được tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận dụng, sử dụng kết quả nghiên cứu trong các hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, phù hợp với pháp luật hiện hành”. Mặc dù quy định giới hạn nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, song đây là một bước tiến trong nhận thức của Đảng, tạo cơ sở chính trị quan trọng để phát huy dân chủ, tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ trong nghiên cứu lý luận chính trị góp phần vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện nghiêm quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, xây dựng cơ chế bảo vệ người có tư duy đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận.
Thứ sáu, mở rộng hợp tác quốc tế, trao đổi lý luận với các đảng cầm quyền, đảng tham chính trên thế giới. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và đề ra các quyết sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, Đảng ta “không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại... Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(8). Theo đó, các cơ quan, tổ chức, học viện, nhà trường có chức năng, nhiệm vụ về công tác lý luận cần tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng và hiệu quả trong quan hệ với các cơ quan nghiên cứu lý luận của các đảng cộng sản, đảng cầm quyền và các đảng chính trị trên thế giới. Cùng với việc tổ chức thực hiện tốt kế hoạch hội thảo, trao đổi, đối thoại lý luận chính trị, cần nghiên cứu triển khai các hình thức hợp tác thiết thực, như trao đổi thông tin, tư liệu, hợp tác nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, phối hợp nghiên cứu những vấn đề cùng quan tâm trong hoạt động hợp tác quốc tế. Qua đó, cầu thị, tiếp thu những kinh nghiệm quý, những bài học thành công của các nước phù hợp với Việt Nam, đồng thời giới thiệu đường lối, chính sách và quảng bá giá trị lý luận đặc sắc của Đảng ta với thế giới; quyết liệt phê phán, đấu tranh không khoan nhượng với sự tiếp thu, trích dẫn, sử dụng dễ dãi kết quả nghiên cứu mới của các học giả, tổ chức nghiên cứu nước ngoài chưa được kiểm định trong thực tiễn.
Thứ bảy, tạo cơ chế, môi trường thuận lợi, bố trí nguồn lực cần thiết cho nghiên cứu lý luận. Đầu tư nguồn lực tài chính thỏa đáng cho công tác lý luận; xây dựng quy định về quy trình đánh giá kết quả nghiên cứu và cơ chế tài chính đặc thù, nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu khoa học lý luận có chất lượng, hiệu quả, ngày càng gắn kết với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong tình hình mới. Đặc biệt coi trọng việc thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị có chất lượng của Đảng./.
-------------------------
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 489
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 124
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 65
(4), (5) Hội đồng Lý luận Trung ương: “Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị tổng kết Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016 - 2021”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 21
(6), (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 90-91, 182
(8) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 37-38
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị: Thực tiễn, kinh nghiệm ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu  (01/04/2023)
Hội thảo Lý luận lần thứ 17 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc  (31/03/2023)
Sự thống nhất hữu cơ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ đất nước và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc hiện nay  (29/03/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển