TCCSĐT - Cuộc họp báo thường niên khép lại năm 2018 của Tổng thống Nga V. Putin đã diễn ra với sự tham dự của 1.702 phóng viên đại diện các cơ quan truyền thông đại chúng trong nước và quốc tế. Đây là lần thứ 14 Tổng thống V. Putin tổ chức họp báo hằng năm và là lần đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống thứ 4 của ông.

Nước Nga điểm lại năm 2018

 
 Tổng thống Nga V. Putin tại buổi họp báo. Ảnh: inspiretochangeworld.com

Trong cuộc họp báo thường niên kéo dài 3 giờ 40 phút ngày 20-12, Tổng thống V. Putin đã trả lời 66 câu hỏi về các vấn đề đối nội và đối ngoại nổi bật trong năm 2018.

Trước hết đó là mục tiêu đưa nước Nga trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới. Tại cuộc họp báo, Tổng thống V. Putin đã điểm lại một số thành tựu của nền kinh tế Nga trong năm 2018 với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nga đã tăng 1,7%, mức lương cũng như thu nhập thực tế của người dân Nga tăng 0,5% so với năm 2017, trong khi ngành chế biến tăng trưởng 3,2%, công nghiệp nhẹ cũng phát triển nhanh hơn trước, trong đó sản xuất giày và quần áo tăng đến 9%. Tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm, sau khi đã đạt mức thấp kỷ lục vào năm 2017. Ngoài ra, tuổi thọ của người dân Nga đã tăng đạt mức trung bình 72,9 tuổi. Với những thành quả đã đạt được, Tổng thống V. Putin cho rằng, Nga cần có bước đột phá hơn nữa trong phát triển kinh tế, đứng vào nhóm 5 nước có nền kinh tế phát triển nhất thế giới.

Đối với vấn đề đối ngoại, về quan hệ với Mỹ, Tổng thống V. Putin khẳng định, Nga quan tâm đến mối quan hệ song phương với Mỹ. Nhà lãnh đạo Nga bày tỏ hy vọng quan hệ Nga - Mỹ sẽ được cải thiện trong thời gian tới.

Đánh giá về tình hình Syria, quan hệ với Anh, Ukraine và các biện pháp trừng phạt của phương Tây. Không chỉ đưa nền kinh tế “thoát hiểm”, nước Nga dưới sự chèo lái của Tổng thống V. Putin đã lấy lại vị thế và giành lại được tầm ảnh hưởng trên trường quốc tế, đặc biệt sau khi với sự giúp đỡ của Nga, Chính quyền Tổng thống Syria Bashar Assad đánh bại lực lượng khủng bố và giành lại quyền kiểm soát gần như toàn bộ đất nước. Tuy nhiên, Tổng thống Nga vẫn cảnh báo nguy cơ các phần tử khủng bố chuyển hoạt động từ Syria sang các nước khác.

Về các biện pháp trừng phạt của phương Tây với Nga, Tổng thống Nga khẳng định, giờ đây vai trò của Nga trong việc giải quyết các hồ sơ quốc tế nóng bỏng là không thể không nhắc đến. Thế nhưng, sự lớn mạnh của Nga chính là nguyên nhân mà theo ông V. Putin “trong gần như toàn bộ lịch sử của mình, Nga phải chung sống với các biện pháp trừng phạt”. Theo nhà lãnh đạo Nga, các biện pháp trừng phạt của phương Tây là phi lý và nhằm mục đích kiềm chế nước Nga. Ông V. Putin cho rằng phương Tây đã đánh mất thị trường Nga rộng lớn. Điều này được minh chứng rất rõ khi tỷ lệ thất nghiệp tại Nga chỉ 4,8%, trong khi tại Liên minh châu Âu (EU), như Tây Ban Nha lên tới 15%.

Về quan hệ căng thẳng giữa Nga - Anh, Tổng thống V. Putin đánh giá quan này hiện đã đi vào ngõ cụt và việc thoát khỏi ngõ cụt này sẽ có lợi cho cả hai nước. Đề cập đến quan hệ căng thẳng với Ukraine, Tổng thống V. Putin cho biết số phận các thủy thủ Ukraine bị bắt giữ tại Eo biển Kerch sẽ được giải quyết sau một phiên tòa xét xử. Tổng thống V. Putin cho rằng, việc giải quyết các vấn đề chính trị ở vùng Donbass bằng vũ lực sẽ thất bại. Mặc dù vậy, Tổng thống V. Putin đánh giá Ukraine vẫn là đối tác kinh tế, thương mại, bất chấp các hành động của chính quyền Kiev, kim ngạch thương mại giữa hai nước vẫn tăng trong năm 2018.

Trong quan hệ với Nhật Bản, Tổng thống V. Putin tuyên bố Nga có thiện chí muốn ký kết hiệp ước hòa bình với Nhật Bản vì cả Nga và Nhật Bản đều quan tâm đến việc xử lý mối quan hệ song phương một cách đầy đủ. Tuy nhiên, Tổng thống V. Putin bày tỏ quan ngại về mức độ phụ thuộc của Nhật Bản vào Mỹ trong lĩnh vực an ninh khi thông qua quyết định cho phép bố trí các hạ tầng quân sự của Mỹ tại nước này. Về quan hệ với Trung Quốc, Tổng thống V. Putin khẳng định mối quan hệ giữa Moscow và Bắc Kinh phát triển vượt bậc trong nhiều lĩnh vực.

Cảnh báo về sự đổ vỡ hệ thống kiểm soát vũ khí quốc tế, Tổng thống V. Putin tỏ ý lấy làm tiếc về sự đánh giá thấp nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang tăng lên. Tổng thống V. Putin nhắc lại khi Mỹ rút khỏi Hiệp ước phòng thủ tên lửa, Moscow buộc phải hiện đại hóa kho vũ khí của mình. Nga không muốn khởi động cuộc chạy đua vũ trang mà chỉ nỗ lực duy trì thế cân bằng lực lượng và bảo đảm an ninh của mình.

Với các vấn đề đối nội và đối ngoại được nhà lãnh đạo Nga đưa ra trong buổi họp báo thường niên khép lại năm 2018, có thể thấy mặc dù đang phải đối mặt với nhiều thách thức nhưng nước Nga dưới sự chèo lái của Tổng thống V. Putin đã vượt qua mọi khó khăn để lấy lại vị thế và giành lại được tầm ảnh hưởng trên trường quốc tế.

Xung quanh kế hoạch phòng vệ mới của Nhật Bản

 
 Trực thăng của lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản và tàu khu trục Shirane. Ảnh: AFP/TTXVN

Chính phủ Nhật Bản và Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) vừa thông qua Đại cương Kế hoạch phòng vệ - bản cương lĩnh định hướng chính sách quốc phòng của Nhật Bản trong vòng 10 năm tới và Kế hoạch Phòng vệ trung hạn giai đoạn 2019 - 2023. Việc thông qua Kế hoạch cho thấy Nhật Bản đang dành sự ưu tiên cho lĩnh vực quốc phòng.

Đại cương Kế hoạch phòng vệ là cương lĩnh quốc phòng cao nhất của Nhật Bản trong thời gian 10 năm. Tuy nhiên, những năm gần đây, văn bản này nhiều lần được sửa đổi để đưa ra những điều chỉnh phù hợp và hiệu quả trong bối cảnh môi trường an ninh toàn cầu và khu vực liên tục biến động.

Trong văn bản công bố ngày 18-12, Nhật Bản xác định môi trường an ninh khu vực và xung quanh nước này đang thay đổi nhanh chóng với những xu hướng diễn biến phức tạp, khó lường, trong đó nổi lên các hoạt động gia tăng quân sự của Trung Quốc trên biển Hoa Đông, biển Nhật Bản, Biển Đông, cũng như gia tăng tần suất tiến ra Thái Bình Dương, gây ra những quan ngại lớn về an ninh đối với khu vực, thế giới và Nhật Bản. Bên cạnh đó, chính phủ Nhật Bản cũng đánh giá CHDCND Triều Tiên chưa có thay đổi thực chất trong tiến trình phi hạt nhân hóa.

Theo Đại cương Kế hoạch phòng vệ, Nhật Bản quyết định số lượng lớn các máy bay chiến đấu thế hệ mới F35 nhằm bảo vệ các đảo xa bờ ngoài khơi Thái Bình Dương, đồng thời cải tiến tàu khu trục chở trực thăng lớp Izumo để có thể sử dụng máy bay chiến đấu F-35B và máy bay STOVL (loại máy bay có thể cất cánh trên đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng).

Ngoài ra, bên cạnh các hình thái tác chiến truyền thống, Nhật Bản cũng lần đầu tiên xác định việc tác chiến trên mạng máy tính, không gian vũ trụ và sóng điện từ là những hình thái mới cần tập trung phát triển để xây dựng sức mạnh phòng vệ tổng hợp nhằm đối phó hiệu quả với sự thay đổi của môi trường an ninh quốc tế. Dự kiến, Nhật Bản sẽ chi 243 tỷ USD dành cho ngân sách quốc phòng cho 5 năm tới. Đây là con số kỷ lục từ trước tới nay. Số tiền này sẽ được sử dụng để mua thêm các phương tiện chiến đấu hiện đại, bao gồm 105 máy bay chiến đấu F35, nâng tổng số phi đội F15 lên con số 147. Nhật Bản cũng sẽ cải biến hai tàu khu trục Izumo và Kaga thành hàng không mẫu hạm có thể sử dụng cho máy bay chiến đấu F35.

Kể từ sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ đã thay Nhật Bản soạn ra Hiến pháp với tên gọi “Hiến pháp hòa bình” cho nước này (có hiệu lực từ năm 1947). Trong đó, Điều 9 của Hiến pháp này quy định: “Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ phát động chiến tranh bằng quyền lực nhà nước, không duy trì lục, hải, không quân và các lực lượng chiến tranh khác, không thừa nhận quyền giao chiến của nhà nước”. Như vậy, có thể nói, bản Hiến pháp hòa bình đã hạn chế đáng kể chính sách phát triển quốc phòng của Nhật Bản. Tuy nhiên, sau 7 thập niên thực hiện “Hiến pháp hòa bình”, trước những thay đổi to lớn của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, Chính phủ Nhật Bản nhiều lần bày tỏ mong muốn sửa đổi bản Hiến pháp này nhằm tăng cường bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia và có đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng quốc tế. Thủ tướng S. Abe muốn sửa đổi Điều 9 trong Hiến pháp nhằm chính thức công nhận vai trò của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản (SDF) là một lực lượng quân đội. Các nhà phân tích nhận định, Nhật Bản đã, đang và sẽ trỗi dậy về mặt quân sự theo cách này hay cách khác, dù Điều 9 của “Hiến pháp hòa bình” có được sửa đổi hay chưa. Nhưng có một điều chắc chắn, một khi Điều 9 của Hiến pháp hòa bình được sửa đổi thì tiềm năng quân sự của Nhật Bản sẽ còn “bùng nổ” hơn nữa. Ngân sách quốc phòng của nước này đã lên tới 43,66 tỷ USD trong năm 2017, tăng 1,4% so với năm 2016 và đánh dấu mức cao nhất trong lịch sử nước này. Với việc công bố Kế hoạch phòng vệ trong vòng 10 năm tới và Kế hoạch Phòng vệ trung hạn giai đoạn 2019 - 2023 vào ngày 18-12 vừa qua, chính phủ của Thủ tướng S. Abe tiếp tục cho thấy quyết tâm theo đuổi việc nâng cấp hệ thống phòng thủ thông qua việc chi mạnh tay hơn cho quốc phòng.

Nỗ lực trong vấn đề ngân sách giữa Italy và EU

 
 Ủy ban châu Âu (EC) thông qua đề xuất của Italy. Ảnh: euractiv.com

Sau nhiều tháng căng thẳng, Italy đã đạt được thỏa thuận với Ủy ban châu Âu (EC) về kế hoạch ngân sách năm 2019. Diễn biến này đã hóa giải được cuộc tranh cãi gay gắt giữa EU và Chính phủ Italy về ngân sách tài khóa 2019, đồng thời tránh được những nguy cơ không mong muốn xảy ra.

Ngay từ khi đảng Liên đoàn phương Bắc và M5S liên minh thành lập chính phủ, giới chức Eurozone chia sẻ mối lo ngại chính phủ mới của Italy sẽ không có năng lực quản trị và những người theo chủ nghĩa dân túy sẽ đẩy nước này vào một cuộc khủng hoảng tồi tệ khác. Giới quan chức của EU khi đó đã lên tiếng cảnh báo về sự ổn định của Khu vực Eurozone nếu Italy mạo hiểm phá vỡ những cam kết về nợ công và thâm hụt ngân sách. EU cho rằng, nợ của Italy là quá lớn để có thể được giải cứu bằng Quỹ cứu trợ tài chính của Eurozone. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) có thể phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan, dẫn đến nguy cơ Italy bị vỡ nợ và gây ra một cuộc khủng hoảng mới cho Eurozone.

Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, Italy có nguy cơ gây ra cuộc khủng hoảng tài chính khác ở châu Âu nếu Rome không sửa đổi kế hoạch ngân sách 2019 của mình theo hướng ôn hòa hơn. Các thị trường tài chính sắp tới có thể sẽ đẩy tỷ lệ lãi suất lên cao hơn và điều này sẽ làm leo thang cuộc khủng hoảng. Ủy viên Phụ trách kinh tế và các vấn đề tài chính EU, ông P. Moscovici thậm chí còn nhận định căng thẳng giữa EU và Italy về kế hoạch ngân sách của nước này không những báo hiệu sự khởi đầu một cuộc khủng hoảng kinh tế mới ở châu Âu, mà còn bộc lộ tình trạng xung đột chính trị trong nội bộ của khối.

Trước sự lo ngại trên, tháng 10-2018, EC đã bác bỏ đề xuất ngân sách chi tiêu quá lớn của Chính phủ liên minh tại Italy cho năm 2019, khẳng định dự thảo này vi phạm nguyên tắc tài chính của EU và đặt ra thời hạn chót để Italy nộp bản sửa đổi. Sau khi Italy từ chối thay đổi kế hoạch ngân sách theo yêu cầu, trong tháng 11, EU chính thức bác bỏ kế hoạch ngân sách của Italy, mở đường cho một loạt biện pháp trừng phạt chưa từng có. Khoản phạt mà EU áp dụng trong trường hợp này có thể lên tới 0,2% GDP.

Trong nỗ lực nhằm tránh các lệnh trừng phạt của EU, ngày 12-12, Thủ tướng Italy G. Conte đã đệ trình lên EU bản kế hoạch ngân sách sửa đổi của nước này, theo đó điều chỉnh theo hướng giảm mục tiêu thâm hụt ngân sách cho năm 2019 từ mức 2,4% xuống còn 2%. Về các nỗ lực của Italy, EU cho rằng, Chính phủ Italy đã có bước đi đúng hướng, song cho rằng nước này vẫn cần thực hiện thêm nhiều bước tiến nữa. EC còn cảnh báo việc giảm thâm hụt công vẫn sẽ chưa đủ để Italy tránh khỏi các trừng phạt của EU nếu hai bên không đạt được thỏa thuận. Nhưng cuối cùng thì cuộc tranh cãi gay gắt giữa EU và Chính phủ Italy về ngân sách tài khóa 2019 đã được hóa giải ngày 19-12 sau khi Brussels chính thức thông báo bản dự thảo ngân sách sửa đổi của Italy không vi phạm quy định của khối.

Theo thỏa thuận mà Italy đạt được với EC ngày 18-12, Italy chấp nhận rút lại các biện pháp quan trọng nhất trong dự thảo (gồm áp dụng một mức thu nhập cơ bản cho tất cả mọi người dân, tăng lương hưu cho người có thu nhập thấp), cam kết không làm tăng thêm khối nợ công khổng lồ 2.000 tỷ hiện nay của nước này. Đổi lại, Brussels đề xuất một cách tính toán ngân sách mềm dẻo hơn có tính đến “bối cảnh đặc biệt”, trong đó có hiện đại hóa cơ sở hạ tầng sau thảm họa sập cầu ở Genoa hồi tháng 8 vừa qua.

Phát biểu tại họp báo ở Brussels, Phó Chủ tịch EC V. Dombrovskis cho biết: “Các cuộc thảo luận tăng cường trong nhiều tuần qua đã đi tới một giải pháp cho năm 2019”. Theo ông V. Dombrovskis, giải pháp này “chưa phải là lý tưởng”, song trước mắt đã tránh được nguy cơ phải áp dụng các quy định trừng phạt khi thâm hụt lên tới 0,2% GDP. Trong khi đó, Ủy viên phụ trách kinh tế của EU P. Moscovici tuyên bố, thỏa thuận về vấn đề ngân sách giữa Italy và EU là chiến thắng của đối thoại trước đối đầu.

Khép lại cuộc khủng hoảng chính trị tại Sri Lanka

 
Thủ tướng Sri Lanka R. Wickremesinghe. Ảnh: thehindu.com

Trước hàng loạt sức ép, Thủ tướng Sri Lanka M. Rajapakse đã chính thức tuyên bố từ chức và ông R. Wickremesinghe tuyên thệ nhậm chức, trở lại cương vị Thủ tướng Sri Lanka. Diễn biến mới này đã chính thức chấm dứt cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài gần 2 tháng qua tại Sri Lanka.

Sri Lanka đã bị mắc kẹt trong một cuộc tranh giành quyền lực sau khi Tổng thống M. Sirisena bất ngờ cách chức Thủ tướng R. Wickremesinghe vào ngày 26-10 và bổ nhiệm cựu Tổng thống M. Rajapakse giữ chức vụ này. Ngay sau khi cách chức ông Wickremesinghe, Tổng thống M. Sirisena đã đình chỉ hoạt động của Quốc hội từ ngày 27-10.

Sau một loạt những diễn biến phức tạp tại chính trường Sri Lanka, ngày 12-12, Quốc hội Sri Lanka đã bỏ phiếu thông qua đề nghị phục chức thủ tướng cho ông R. Wickremesinghe. Ngày 13-12, Tòa án Tối cao Sri Lanka đã ra phán quyết cho rằng việc Tổng thống M. Sirisena quyết định giải tán quốc hội là bất hợp pháp. Phán quyết này có thể dẫn đến các thủ tục luận tội ông M. Sirisena. Cùng ngày, Tòa án Tối cao Sri Lanka ủng hộ phán quyết của Tòa án Thượng thẩm, tiếp tục ra lệnh treo quyền Thủ tướng của ông M. Rajapakse, đồng thời phong tỏa hoạt động của chính phủ do ông đứng đầu.

Trước nhiều sức ép, ngày 15-12, Thủ tướng Sri Lanka M. Rajapakse chính thức tuyên bố từ chức, mở đường cho một chính phủ mới được thành lập dưới sự điều hành của Tổng thống M. Sirisena. Ngày 16-12, ông R. Wickremesinghe đã tuyên thệ nhậm chức, trở lại giữ chức Thủ tướng Sri Lanka.

Phát biểu trước báo giới, các nghị sĩ thuộc đảng Thống nhất Dân tộc của ông R. Wickremesinghe cho rằng, việc bổ nhiệm ông R. Wickremesinghe trở lại đứng đầu chính phủ đã khôi phục nền dân chủ và chính phủ mới từ lúc này sẽ nỗ lực thúc đẩy kinh tế, đồng thời đưa ra những đề xuất mới cho đất nước. Trong khi đó, trước những người ủng hộ tại dinh thự của mình, ông R. Wickremesinghe tuyên bố bảo đảm tình hình kinh tế cũng như điều kiện sống tốt hơn đối với người dân Sri Lanka sau khi bắt tay vào ổn định đất nước.

Sau khi ông R. Wickremesinghe được tái bổ nhiệm giữ chức Thủ tướng Sri Lanka, Ấn Độ đã lên tiếng hoan nghênh. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Ấn Độ R. Kumar nêu rõ: “Là láng giềng gần gũi và người bạn đích thực, Ấn Độ hoan nghênh việc giải quyết tình hình chính trị ở Sri Lanka. Điều này phản ánh sự chín chắn của tất cả các lực lượng chính trị cũng như sự bền vững của nền dân chủ cùng các thiết chế ở Sri Lanka. Ấn Độ vẫn duy trì cam kết thúc đẩy các dự án phát triển của mình ở Sri Lanka. Chúng tôi tin rằng quan hệ Ấn Độ - Sri Lanka sẽ tiếp tục đi theo quỹ đạo phát triển”.

Trong bối ảnh khủng hoảng chính trị và kinh tế bủa vây, việc ông R. Wickremesinghe tuyên thệ nhậm chức, trở lại giữ chức Thủ tướng Sri Lanka đã khép lại tình trạng bất ổn chính trị tại quốc gia Nam Á này, đồng thời mở ra cơ hội để Sri Lanka nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết những khó khăn kinh tế.

Thúc đẩy hợp tác Mekong - Lan Thương vì sự thịnh vượng chung

 
 Lãnh đạo các nước họp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Hợp tác Mekong - Lan Thương (MLC) lần thứ tư. Ảnh: TTXVN

Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Hợp tác Mekong - Lan Thương (MLC) lần thứ tư với sự tham dự của Bộ trưởng Ngoại giao các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam diễn ra ngày 17-12, tại thành phố Luang Prabang (Lào) đã kết thúc thành công.

Tại Hội nghị, với chủ đề “Thúc đẩy đối tác vì sự thịnh vượng chung”, Bộ trưởng Ngoại giao các nước MLC đã tập trung đánh giá tình hình hợp tác trong năm 2018 và trao đổi về phương hướng hợp tác trong thời gian tới. Các Bộ trưởng ghi nhận những kết quả tích cực mà MLC đã đạt được trong năm 2018. Một số kết quả nổi bật gồm: Phần lớn các dự án của năm 2017 đã được các nước Mekong - Lan Thương hoàn thành hoặc đạt tiến triển, nhiều dự án mới đã được khởi động và tiếp nhận hỗ trợ tài chính từ Quỹ đặc biệt MLC trong năm 2018. Trung tâm hợp tác nguồn nước MLC, Trung tâm hợp tác môi trường MLC, Trung tâm nghiên cứu về Mekong đã đi vào hoạt động. Tuần lễ hợp tác Mekong - Lan Thương lần thứ nhất và các diễn đàn hợp tác về nguồn nước, năng lực sản xuất, phát triển nông thôn và truyền thông đã được tổ chức thành công. Những hoạt động hợp tác này góp phần tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước thành viên, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn khu vực.

Về hợp tác thời gian tới, các bộ trưởng thống nhất đẩy mạnh hơn nữa việc triển khai Kế hoạch Hành động hợp tác Mekong - Lan Thương giai đoạn 2018 - 2022 được thông qua tại Hội nghị Cấp cao MLC lần thứ 2 diễn ra vào tháng 01-2018. Theo đó, bộ trưởng các nước Mekong - Lan Thương nhất trí nghiên cứu các sáng kiến thúc đẩy hợp tác về năng lực sản xuất, kết nối khu vực, thương mại, năng lượng, hải quan, y tế, giáo dục, xây dựng một vành đai phát triển kinh tế MLC; đồng thời, triển khai các dự án mới nhằm nâng cao đời sống của người dân; nâng cao hiệu quả hoạt động của MLC. Các bộ trưởng cũng nhất trí tăng cường sự gắn kết, bổ trợ của MLC với chiến lược phát triển quốc gia, các cơ chế hợp tác khu vực và tiểu vùng có liên quan như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Chiến lược Hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyarwady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS), Hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) và Ủy hội sông Mekong (MRC).

Về hợp tác nguồn nước Mekong, các bộ trưởng hoan nghênh việc chuyên gia 6 nước thống nhất Kế hoạch Hành động hợp tác nguồn nước MLC 2018 - 2022 và đề nghị các bên tích cực triển khai kế hoạch nhằm tăng cường hợp tác quản lý nguồn nước. Bộ trưởng ngoại giao của 6 nước thuộc tổ chức Hợp tác Mekong - Lan Thương cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của nền kinh tế thế giới mở và duy trì hệ thống thương mại đa phương dựa trên các quy tắc với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là trọng tâm.

Hội nghị đã thông qua Thông cáo Báo chí chung, bày tỏ sẵn sàng cùng nhau hợp tác vì thành công và kết quả tích cực của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao MLC lần thứ 5 vào tháng 12-2019 tại Trung Quốc và Hội nghị cấp cao MLC lần thứ 3 vào tháng 01-2020 tại Lào./.