TCCSĐT - Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1992) đến nay, mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc ngày càng được củng cố, phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Trong đó, nét nổi bật nhất là quan hệ kinh tế đã phát triển nhanh chóng lên một tầm cao mới và chuyển thành quan hệ "Đối tác hợp tác chiến lược".

1. Những kết quả đáng ghi nhận

Về thương mại: Quy mô trao đổi thương mại hai nước liên tục tăng lên kể năm 1992 đến nay. Năm 1995, kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 1.488 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 235 triệu USD, nhập khẩu: 1.253 triệu USD. Năm 2000, các con số tương ứng là 2.106 triệu USD, 353 triệu USD và 1.753 triệu USD. Xu hướng gia tăng không ngừng quan hệ thương mại giữa hai nước thể hiện rõ nhất trong giai đoạn 10 năm gần đây (2001-2010).

Trong 10 năm qua, tổng mức buôn bán hai chiều tăng 4,78 lần, bình quân mỗi năm tăng 17,55%, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng 5,54 lần, bình quân tăng 21% và kim ngạch nhập khẩu tăng 4,6 lần, bình quân tăng 18,55%. Điều đáng ghi nhận trong quan hệ thương mại giữa hai nước 10 năm qua là tốc độ tăng của thời kỳ sau nhanh hơn thời kỳ trước, nhất là đối với kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Hàn Quốc. Tốc độ tăng kim ngạch buôn bán 2 chiều bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 16,7%; giai đoạn 2006-2010 là 19,9%.

Trong năm 2009, tuy bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kim ngạch thương mại hai chiều vẫn đạt mức năm 2008, trong đó kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng 15,1%. Năm 2010, kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc đều bắt đầu hồi phục nên kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt mức cao nhất, lên tới 11 tỉ USD, vượt mức năm 2008 cả về xuất khẩu và nhập khẩu.

Năm 2005, Hàn Quốc trở thành đối tác trao đổi thương mại lớn thứ 6 của Việt Nam sau Trung Quốc (20,2 tỉ USD), Nhật Bản (16,8 tỉ USD), Mỹ (14,5 tỉ USD), Xin-ga-po (12,1 tỉ USD), Đài Loan (9,8 tỉ USD). Năm 2009, Hàn Quốc là bạn hàng lớn thứ 4 của Việt Nam với kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 10 tỉ USD.

Về đầu tư: Trong giai đoạn 1992-2000, Hàn Quốc chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực dệt may, lắp ráp điện tử. Những năm sau đó (2001-2010), các doanh nghiệp Hàn Quốc có xu hướng chuyển sang đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp nặng, điện tử, vận tải, bất động sản, khách sạn, nhà hàng…với quy mô lớn và công nghệ cao. Cùng với sự hồi phục của nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính suy thoái kinh tế toàn cầu, Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam với quy mô ngày càng lớn và tốc độ tăng nhanh.

Vốn FDI của Hàn Quốc tăng từ 469 triệu USD năm 2004 lên 3.106 triệu USD năm 2006; 5.395 triệu USD năm 2007; 2.019 triệu USD năm 2008 và 1.911 triệu USD năm 2009, và ước đạt 2.500 triệu USD năm 2010.

Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hàn Quốc là quốc gia đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, đứng thứ nhất cả về số dự án và vốn đăng ký trong tổng số 100 các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hiện có trên 1.700 doanh nghiệp Hàn Quốc đang làm ăn tại Việt Nam. Mặc dù gặp khó khăn do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 và 2009, nhưng theo thống kê của Phòng Thương mại Hàn Quốc, hơn 90% số doanh nghiệp Hàn Quốc không có ý định cắt giảm hoặc chuyển vốn đầu tư sang thị trường khác.

Các doanh nghiệp đầu tư Hàn Quốc tại Việt Nam theo nhóm ngành: chế tạo (68%), mậu dịch (8%), xây dựng (6%), vận tải - kho bến (4%), bảo hiểm tài chính (3%), nông lâm ngư nghiệp (2%). Xét về ngành nghề thì dệt may, giày da, điện tử, đầu tư bất động sản chiếm tỷ lệ cao nhất. Hiện nay các doanh nghiệp Hàn Quốc đang sử dụng 500.000 lao động Việt Nam.

Những đóng góp của các doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam thể hiện trên các mặt sau:

+ Tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế Việt Nam đang khát vốn, nhất là đầu tư trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực.

+ Tiếp thu công nghệ, sản xuất và xuất khẩu ở bộ phận công nghiệp sử dụng lao động có chuyên môn.

+ Tăng nguồn đầu tư cho một số lĩnh vực Việt Nam đang yếu như công nghiệp chế tạo, chế biến nông sản, công nghiệp nặng, điện tử, vận tải, bất động sản, nông lâm nghiệp… với quy mô lớn và công nghệ cao.

Hơn 90% trong số 217 công ty có vốn đầu tư lớn của Hàn Quốc tại Việt Nam cảm thấy thỏa mãn với các hoạt động tại địa bàn của mình. Không chỉ vốn đầu tư cao nhất, Hàn Quốc còn là nước có vốn FDI thực hiện thuộc loại cao nhất so với các nước khác và có xu hướng tăng dần. Hàn Quốc cũng là nhà tài trợ ODA lớn thứ 2 cho Việt Nam tính đến năm 2010.

Quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc trong những năm qua không chỉ phát triển mạnh về thương mại, đầu tư mà trong cả các lĩnh vực khác như văn hóa, du lịch, y tế, giáo dục, đào tạo, quân sự, môi trường… Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lao động lớn thứ 3 của Việt Nam (hiện có khoảng 54.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc). Mỗi năm có khoảng 500.000 lượt du khách của hai nước qua lại và hàng nghìn người Việt Nam đang theo học tại các trường ở Hàn Quốc.

Nguyên nhân của những kết quả trên có nhiều, trong đó quan trọng nhất là do quan hệ chính trị, ngoại giao giữa hai nước trong những năm qua đã phát triển tốt đẹp. Các chuyến thăm viếng cấp nguyên thủ quốc gia được tiến hành hàng năm trong những năm gần đây đã và đang góp phần tăng cường và củng cố quan hệ giữa hai nước. Nhiều cuộc hội thảo khoa học cấp cao về hợp tác kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đã được triển khai ở cả hai nước.

2. Một số hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn quốc những năm qua vẫn tỏ ra chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của cả hai nước. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc năm 2009 chỉ đạt 2.064,5 triệu USD, đứng thứ 7, sau Hoa Kỳ là 11.355,8 triệu USD, Thụy Sỹ: 2.486 triệu USD, Ô-xtrây-li-a: 2.276,7 triệu USD, Trung Quốc: 4.909 triệu USD, Nhật Bản: 6.291,8 triệu USD, Xin-ga-po: 2.076 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc cũng chỉ đứng thứ 3 sau Trung Quốc là 16.441 triệu USD và Nhật Bản: 7.468 triệu USD. Nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc còn lớn: từ 53,7% năm 2001 lên 4,4 lần năm 2005 và 2,8 lần năm 2010.

Về vốn FDI, tuy Hàn Quốc đứng đầu về số vốn đăng ký và vốn thực hiện nhưng mặt hạn chế là cơ cấu nguồn vốn tập trung quá nhiều vào công nghiệp nặng, điện tử, lắp ráp, trong khi đó vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản còn ít.

Về du lịch, lượng khách Hàn Quốc đến Việt Nam tăng chậm và không đều, năm 2009 thấp hơn năm 2008, năm 2010 tuy có cao hơn năm 2009 nhưng vẫn thấp so với tiềm năng.

3. Triển vọng trong các năm tới

Trong những năm tới, vai trò, vị trí quan trọng của Việt Nam và Hàn Quốc tiếp tục được khẳng định trên trường quốc tế và khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, trong đó GDP tăng bình quân 7%-8%/năm và dự báo nhu cầu các nguồn vốn cho đầu tư phát triển 5 năm tới khoảng 250 tỉ USD. Do vậy, cùng với việc tích cực huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút các nguồn vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, trong đó Hàn Quốc là đối tác chiến lược. Theo tinh thần đó, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Hàn Quốc làm ăn lâu dài và thành công tại Việt Nam, mang lại lợi ích cho cả haibên. Việt Nam cũng mong muốn các doanh nghiệp Hàn Quốc tiếp tục mở rộng đầu tư kinh doanh, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; sản xuất vật liệu, năng lượng mới, sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ; phát triển nguồn nhân lực, y tế, phát triển nông, lâm, thuỷ sản; tăng cường quan hệ thương mại, xuất khẩu lao động, mở rộng giao lưu văn hoá, hợp tác khoa học công nghệ...

Hàn Quốc là cường quốc kinh tế của châu Á, có nhiều tiềm năng và thế mạnh về vốn, khoa học công nghệ, thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá do Việt Nam sản xuất. Với quan hệ chính trị tốt đẹp, nguồn lực dồi dào, Hàn Quốc có đủ các điều kiện để cung cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam ở mức cao hơn; tăng cường đầu tư vào các dự án trọng điểm tại Việt Nam như xây dựng kết cấu hạ tầng, năng lượng, công nghệ cao, phát triển công nghiệp phụ trợ; tạo thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc

Với triển vọng đó, dự báo đến năm 2015, kim ngạch thương mại giữa hai nước sẽ tăng từ 11 tỉ USD năm 2010 lên 20 tỉ USD. Số vốn FDI của các doanh nghiệp Hàn Quốc còn hiệu lực sẽ vượt 30 tỉ USD. Triển vọng này có nhiều khả năng trở thành hiện thực.

Có năm lý do để cho rằng các doanh nghiệp Hàn Quốc sẽ mở rộng thị trường và tăng vốn FDI tại Việt Nam trong những năm tới là:

- Nền kinh tế đang “bùng nổ” của Việt Nam với khả năng tiêu dùng nội địa tăng lên.

- Có khả năng chuyển hướng xuất khẩu dễ dàng sang nước thứ ba như Mỹ, châu Âu và các nước ASEAN.

- Nguồn nhân công giá rẻ.

- Phong tục tập quán, văn hoá giữa hai nước có nhiều điểm tương đồng

- Chính trị, xã hội Việt Nam ổn định, quan hệ chính trị, ngoại giao giữa hai nước Việt Nam - Hàn Quốc phát triển tốt đẹp.

Chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao của hai nước trong năm 2010 đã mở ra một chương mới trong mối quan hệ đang phát triển nhanh chóng giữa hai nước, mang đến cơ hội để hai nước nâng tầm quan hệ, tăng cường và mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực như chính trị, an ninh, kinh tế./.