Chăm sóc môi trường, cảnh quan sạch đẹp tại trạm biến áp Mộc châu (Sơn La) - Ảnh: TTXVN

Tại Hội nghị cấp cao của Liên hợp quốc về tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu được tổ chức ở Niu Oóc (Mỹ) vào tháng 9-2007, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Mun đã cảnh báo, nếu cộng đồng quốc tế không hành động ngay thì tác động của tình trạng ấm lên của trái đất sẽ ở mức tàn phá.

Biến đổi khí hậu - thách thức của thời đại

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, lượng khí thải CO2 đang tăng nhanh hơn so với một thập kỷ trước đây. Theo ước tính, chỉ trong vòng 10 năm - 15 năm nữa, lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ vượt ngưỡng cho phép để có thể duy trì tình trạng ấm lên ở mức "chấp nhận được" như hiện nay. Một số ý kiến cho rằng, ngay cả khi lượng khí CO2 trong khí quyển dừng lại ở mức như hiện nay thì mực nước biển vẫn sẽ tăng từ 0,4m - 1,4m. Theo Phờ-len-nơ-ry, tác giả cuốn "Những người dự báo thời tiết" (trong danh mục sách bán chạy nhất thế giới), thì dữ liệu khoa học mới cho thấy, lượng các-bon đi-ô-xít và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính khác đã đạt khoảng 455 phần trên một triệu vào giữa năm 2005, vượt so với nhiều tính toán khoa học trước đó.
 
Theo số liệu của 10 nghìn trạm khí tượng trên toàn thế giới, nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 0,6oC trong vòng 100 năm qua. Tuy nhiên, cũng có một số nhà khoa học lại cho rằng, chưa tìm được bằng chứng xác thực cho thấy quá trình ảnh hưởng tiêu cực bắt đầu xảy ra ở điều kiện nhiệt độ tăng lên này. Nhiệt độ toàn cầu tăng lên từ những năm 40 của thế kỷ trước, nhưng lại giảm xuống vào thập kỷ 70, sau đó tăng trở lại. Hiện tượng nóng lên toàn cầu hiện nay tương tự trong giai đoạn thập kỷ 40, tuy nhiên, tác hại của hiện tượng này lớn hơn nhiều so với 60 năm trước.

Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Mun đã công bố báo cáo của ủy ban Hợp tác liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), trong đó nêu rõ tình trạng biến đổi khí hậu là thách thức của thời đại. Báo cáo cũng đưa ra cảnh báo: trái đất đang bị những hành động của con người đẩy tới một giai đoạn nóng ấm với tốc độ ngày càng tăng. Lượng khí gây hiệu ứng nhà kính do con người thải ra môi trường là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu. Báo cáo cho rằng, biến đổi khí hậu có thể làm tan băng; khoảng 20% - 30% các loài động thực vật có nhiều nguy cơ bị diệt chủng nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,5oC đến 2,5oC so với mức trung bình của giai đoạn 1980 - 1999. Sản lượng của các ngành nông nghiệp phụ thuộc vào mưa có thể giảm đi một nửa và châu Phi sẽ phải đối mặt với vấn đề an toàn thực phẩm ngày càng tồi tệ. Bản báo cáo nói trên được coi là ảm đạm nhất từ trước tới nay với lời cảnh báo rằng, tác động của tình trạng ấm lên trên toàn cầu là "bất ngờ và không thể đảo ngược", đồng thời không loại trừ bất cứ quốc gia nào.

Ông Ban Ki Mun nhận xét, bản báo cáo lịch sử này sẽ giúp tạo ra bước đột phá trong nỗ lực đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu. Ông cho rằng, có nhiều biện pháp gắn với thực tế và không quá tốn kém để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Cùng với việc công bố báo cáo về biến đổi khí hậu, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Mun kêu gọi các nước cần hành động để đối phó với tình trạng này.

Ô nhiễm môi trường - nỗi lo lớn của mỗi chúng ta

Báo cáo phát triển con người năm nay đã dành nội dung chủ yếu cho biến đổi khí hậu, vấn đề được ghi nhận là "tình huống khẩn cấp" của một cuộc khủng hoảng gắn liền với hôm nay và mai sau. Đứng thứ 5 về khả năng dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã được Liên hợp quốc chọn là quốc gia để tiến hành nghiên cứu điển hình về biến đổi khí hậu và phát triển con người.

Cùng với không ít những mặt tích cực, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra nhanh chóng cũng làm tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái thêm nghiêm trọng, gây ra những hậu quả khôn lường. ở phía Nam, mỗi ngày sông Thị Vải phải oằn mình gánh chịu hàng chục ngàn mét khối nước thải từ các khu công nghiệp (KCN): Gò Dầu, Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2, Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai), Mỹ Xuân A, Mỹ Xuân A2, Mỹ Xuân B1, Phú Mỹ 1, Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu)... Hệ thống kênh rạch chằng chịt là một lợi thế của Thành phố Hồ Chí Minh, vừa cung cấp nước vừa tạo cảnh quan thoáng đãng, thuận tiện cho giao thông thủy. Tuy nhiên, có tới 60% - 70% chiều dài các tuyến kênh rạch ở Thành phố bị ô nhiễm nặng vì hằng ngày phải gánh chịu khoảng 40 tấn rác và 70.000 m3 nước thải, đang trở thành hiểm họa đe dọa cuộc sống của người dân.

Thành phố Hồ Chí Minh có 15 khu công nghiệp - khu chế xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải mà xả thẳng xuống hệ thống kênh rạch, sông ngòi. Những kết quả phân tích gần đây của Chi cục Bảo vệ môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, nước ngầm ở những khu vực gần kênh rạch ô nhiễm vi sinh, co-li, nồng độ phèn, sắt... đều vượt quá hàm lượng cho phép của tiêu chuẩn nước ngầm. Điều này là một mối đe dọa kinh khủng cho hiện tại và các thế hệ sau. Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, mỗi ngày Thành phố Hồ Chí Minh xả trực tiếp khoảng 237 tấn chất thải sinh hoạt và hàng tấn hóa chất độc hại chưa qua xử lý xuống dòng sông Sài Gòn, hiện nước sông Sài Gòn bị đục gấp 5 lần và hàm lượng các hóa chất độc hại tăng từ 30 đến 40 lần so với những năm trước. Cơ quan chức năng đều biết rõ chất lượng nước sông Sài Gòn ngày càng suy giảm, nhưng tới nay cũng chưa có giải pháp nào cụ thể để bảo vệ nguồn nước đang cung cấp cho hơn 1,5 triệu người dân của Thành phố. Việc xây dựng đô thị lan ra các vùng thấp càng làm tình trạng ngập úng diễn ra ngày càng nghiêm trọng mỗi khi triều cường xuất hiện.

Với trữ lượng tiềm năng 36,6 tỉ m3 nước, nhiều năm qua, sông Đồng Nai đã đem lại nguồn lợi khổng lồ về điện năng, phục vụ tưới tiêu cho hơn 1,8 triệu ha đất nông nghiệp, đặc biệt là cung cấp nước sinh hoạt cho người dân tại các khu đô thị lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Biên Hòa... Tuy nhiên, do con người vắt kiệt nguồn lợi nên con sông này hiện thiếu nước sạch nghiêm trọng, dẫn đến những mùa vụ thất thu, cá chết hàng loạt, thậm chí gây ra những căn bệnh lạ. Theo tính toán của các cơ quan môi trường, đến năm 2010, mỗi ngày hệ thống sông Đồng Nai sẽ tiếp nhận khoảng 1,73 triệu m3 nước thải sinh hoạt, trong đó có 702 tấn cặn lơ lửng, 421 tấn BOD5, 756 tấn COD... và nhiều vi trùng gây bệnh cùng với các tác nhân gây ô nhiễm khác.
 
Ngoài ra, với 74 KCN sẽ được hình thành thì hệ thống sông này còn phải tiếp nhận khoảng 1,54 triệu m3 nước thải công nghiệp, trong đó có khoảng 278 tấn cặn lơ lửng, 231 tấn BOD5, các kim loại nặng... Với tải lượng ô nhiễm nước thải như đã tính toán, khả năng tự làm sạch của hệ thống sông Đồng Nai sẽ không được bảo đảm, mức độ ô nhiễm nguồn nước sẽ ngày một gia tăng, gây những tác động xấu trở lại đối với các hoạt động kinh tế- xã hội. Trong đó, đặc biệt nghiêm trọng là vấn đề cung cấp nước sạch cho dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai. Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang sử dụng nguồn nước từ sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.

Theo Chi cục Bảo vệ môi trường Tây Nam Bộ, 3,34 triệu dân sống ở các đô thị đã thải ra môi trường khoảng 102 triệu m³ nước thải/năm, chất thải rắn trên 600.000 tấn/năm (đều chưa qua xử lý). Ngoài ra, còn có 68 KCN tập trung và 75.000 cơ sở công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp hoạt động xen kẽ trong các khu dân cư, gây nên tình trạng ô nhiễm khói bụi, tiếng ồn ngày càng nghiêm trọng. Đây cũng là tình trạng chung của khu vực miền Trung. Thành phố Phan Thiết của tỉnh Bình Thuận được đề nghị nâng cấp lên đô thị loại 2, nhưng theo ý kiến của nhiều chuyên gia, vấn đề vệ sinh môi trường của thành phố rất đáng lo ngại. Sông Cà Ty, hình ảnh thơ mộng của thành phố du lịch này cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Vấn đề khai thác các tài nguyên (trên hoặc dưới) biển như: dầu khí, quặng, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng rất đáng quan tâm. Nạn tràn dầu và nhiều vụ tai nạn tương tự khác là cảnh báo nghiêm ngặt về sự hủy hoại môi trường. Tình trạng khai thác mang tính hủy diệt thủy sản trên biển, việc nuôi thủy sản tràn lan chỉ nhằm lợi ích trước mắt đã gây ô nhiễm biển, làm tổn hại đến việc nuôi trồng, đánh bắt dài hạn. Trong khi đó, nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ công liên quan tới phòng, chống ô nhiễm và bảo vệ biển, đảo cũng đang là thách thức lớn.

Cần làm ngay với sự góp sức của toàn xã hội

Để có thể phát triển bền vững, vấn đề bảo vệ môi trường cần được tính toán nghiêm túc khi lập chiến lược. Tại Hội thảo Cơ chế phát triển sạch (CDM) được tổ chức vào tháng 1-2008, bà Vũ Thị Hồng Thủy, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, trong thời gian tới, Thành phố sẽ triển khai 9 dự án CDM. Cơ chế phát triển sạch là một trong ba cơ chế linh hoạt của Nghị định thư Ky-ô-tô nhằm tạo điều kiện cho các nước phát triển đầu tư các dự án về lĩnh vực môi trường vào các nước đang phát triển để có được những tín chỉ giảm phát thải (một đơn vị giảm phát thải tương đương với việc giảm bớt 1 tấn khí C02). Tháng 5-2008, Thành phố bắt đầu thực hiện dự án thu hồi khí bãi rác và phát điện ở bãi rác Đông Thạnh (huyện Hóc Môn) và Phước Hiệp (huyện Củ Chi) với tổng vốn đầu tư 20 triệu USD. Mục tiêu của dự án này nhằm giảm trên 2 triệu tấn khí C02, giai đoạn 2008 - 2014.

Bằng vốn tài trợ 3 triệu ơ-rô của Liên minh châu Âu (EU), các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đang triển khai chương trình quy hoạch quản lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường đô thị. Đây là chương trình quy mô lớn nhất từ trước đến nay tại khu vực. Theo đó, trong vòng 3 năm, các tỉnh, thành sẽ nâng cao trình độ quy hoạch đô thị phù hợp với xu thế chung của thế giới. Đồng thời, xây dựng chính sách nhằm thu hút đầu tư quốc tế trong bảo vệ, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý môi trường; tăng cường giáo dục, truyền thông cũng như xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, tạo ra phong trào toàn dân tích cực tham gia bảo vệ môi trường./.