Quân đội nhân dân Việt Nam: Kết hợp nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế

Lê Nguyên An Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
15:07, ngày 06-01-2014

TCCSĐT - Gần 70 năm qua, trên suốt chặng đường xây dựng, chiến đấu và chiến thắng vẻ vang, Quân đội nhân dân Việt Nam không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có được truyền thống hào hùng đó, ngoài sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự thương yêu, đùm bọc của nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế.

Kết hợp nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế tại Lào

Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng gần gũi, có nhiều điểm tương đồng về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, cũng như vận mệnh lịch sử, do đó từ rất sớm, quân và dân hai nước đã đoàn kết, gắn bó bền chặt bên nhau chống thù chung, bảo vệ chủ quyền quốc gia và nền độc lập của mỗi dân tộc. Với tinh thần đoàn kết quý báu, khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam và Lào lần thứ hai, trên cơ sở pháp lý những hiệp ước, hiệp định đã ký kết (1), cùng với nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử lực lượng sang giúp quân dân Lào bảo vệ thành quả cách mạng, từng bước xây dựng và củng cố lực lượng, tiến hành kháng chiến, kiến quốc. 

Với sự giúp đỡ hiệu quả của Quân đội nhân dân Việt Nam, cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, phát triển vượt bậc về lực lượng, đánh dấu bằng sự ra đời của Quân đội Lào Ít-xa-la vào ngày 20-01-1949, góp phần củng cố, xây dựng vững chắc tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội hai nước về mọi mặt.

Ngày 30-10-1949, thực hiện chủ trương tăng cường và đẩy mạnh hoạt động của lực lượng quân sự Việt Nam tại Lào, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện” (2).

Trên tinh thần “hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”, quân tình nguyện Việt Nam đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, cùng cách mạng Lào xây dựng, củng cố lực lượng, trong đó chú trọng phát triển Quân đội Lào Ít-xa-la trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Từ sự lớn mạnh của Quân đội Lào Ít-xa-la, cách mạng Lào có những bước tiến vững chắc, từng bước hòa vào dòng chảy chung của cách mạng 3 nước Đông Dương. Năm 1950, nhiều vùng giải phóng và khu căn cứ rộng lớn của Lào đã được xây dựng, chiếm khoảng 1/3 diện tích đất nước, nối liền với nhau, mở thông với các vùng căn cứ Tây Bắc, các vùng hậu phương của Liên khu 4, Liên khu 5 Việt Nam, tạo thành thế kháng chiến liên hoàn vững chắc suốt theo chiều dài biên giới từ Bắc xuống Nam, theo từng vùng, miền hai nước Việt Nam và Lào. 

Tháng 4-1951, Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện mặt trận Thượng Lào được thành lập nhằm thống nhất các lực lượng quân tình nguyện ở phía Bắc Lào và Tây Lào (gồm các đoàn 80, 81, 82 và 83), tập trung cùng các lực lượng cách mạng Lào xây dựng khu giải phóng Thượng Lào thành căn cứ địa chính của cả nước. Tiếp đó, thực hiện chủ trương tăng cường liên minh chiến đấu của Đảng Lao động Việt Nam và quán triệt sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 03-02-1953, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Chính phủ Kháng chiến Lào quyết định phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai, xây dựng và mở rộng khu căn cứ địa, tạo lập hậu phương kháng chiến, thúc đẩy cuộc kháng chiến của Lào và phá thế bố trí chiến lược của địch ở khu vực Bắc Đông Dương. 

Ngày 03-4-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ, dân công tham gia chiến dịch và đặt giải thưởng cho những đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc. Trong thư, Người căn dặn: “Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình” (3). Từ đây, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào, cùng với việc quán triệt tinh thần đoàn kết quốc tế của Đảng đã thực hiện xuất sắc phương châm chiến lược “giúp bạn là mình tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt về tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân đội hai nước và là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để quân dân hai nước đẩy mạnh phối hợp tác chiến trên các chiến trường, tiến lên giành thắng lợi quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ (ngày 21-7-1954), lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước Lào chuyển về tập kết ở 2 tỉnh Sầm Nưa và Phông-xa-lỳ, chờ một giải pháp chính trị hiệp thương thông qua đàm phán giữa lực lượng Pa-thét Lào và Chính phủ Vương quốc Lào, nhằm mục đích đến năm 1955 sẽ tổ chức tổng tuyển cử thành lập một nước Lào độc lập, thống nhất trên toàn lãnh thổ của Lào. 

Tuy nhiên, niềm hy vọng được sống trong độc lập, thống nhất và hòa bình của nhân dân Lào không diễn ra như mong đợi. Đế quốc Mỹ đã từng bước can thiệp, tiến tới xâm lược các nước Đông Dương bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới, hòng ngăn chặn và đẩy lùi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới. Có thể nói, nếu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kéo dài đến 9 năm, thì cuộc đọ sức lần này của quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào chống đế quốc Mỹ xâm lược diễn ra lâu dài và ác liệt hơn trước. 

Theo yêu cầu của Đảng (4), Chính phủ kháng chiến Lào (5), cùng với việc cử Đoàn cố vấn quân sự Việt Nam (Đoàn 100) giúp bạn trong những năm đầu kháng chiến, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng trắng trợn vào công việc nội bộ của Lào, thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam lần lượt cử các đoàn chuyên gia quân sự 959, 463, 565 và các đoàn quân tình nguyện 335, 316, 763, 766, 866, 968 sang giúp quân và dân Lào xây dựng lực lượng, củng cố khu căn cứ, vùng giải phóng. Từ năm 1969, đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường”, yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Lào đòi hỏi ngày càng lớn, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã từng bước chấn chỉnh tổ chức, biên chế các đoàn quân tình nguyện và chuyên gia quân sự, đáp ứng yêu cầu tình hình mới của cách mạng Lào.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, các đoàn quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào tuy hoạt động trên các địa bàn khác nhau, nhưng đều chung mục đích là giúp bạn trưởng thành, từng bước tự đảm nhận được nhiệm vụ cách mạng. Thành quả to lớn của quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào đã hỗ trợ tích cực đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam.

Ngày 30-4-1975, với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nắm bắt thời cơ thuận lợi do cách mạng Việt Nam tạo ra, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục giúp cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi cuối cùng vào năm 1975. Ngày 02-12-1975, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Lào kết thúc thắng lợi. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam kết thúc một chặng đường thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn, hoàn thành xuất sắc yêu cầu kết hợp giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế, để lại dấu ấn sâu đậm lịch sử trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.

Sau năm 1975, nhằm giúp cách mạng Lào bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục cử các đoàn chuyên gia quân sự sang giúp cách mạng Lào. Trong tình hình mới, sự kết hợp giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế một lần nữa được chuyên gia quân sự Việt Nam thể hiện sinh động, qua đó góp phần xây dựng và củng cố nền quốc phòng của Lào, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước Lào trên con đường đổi mới và hội nhập.

Kết hợp nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia

Đi đôi kết hợp nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế tại Lào, trong những năm đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chế độ diệt chủng và hồi sinh đất nước Cam-pu-chia, theo yêu cầu của bạn và trên cơ sở truyền thống đoàn kết hữu nghị giữa hai dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã sang giúp quân dân Cam-pu-chia thực hiện thắng lợi những mục tiêu cách mạng. 

Trước tình hình thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra bán đảo Đông Dương, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc, trong đó chủ trương thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, thành lập Bộ Tư lệnh Lào - Miên (tháng 10-1946). Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã giúp Cam-pu-chia phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược. Khi phong trào cách mạng Cam-pu-chia có bước phát triển vững chắc, năm 1951, Việt Nam giúp cách mạng Cam-pu-chia tổ chức Mặt trận Khơ-me Ít-xa-rắc, từng bước xây dựng, mở rộng cơ sở ở nhiều nơi, xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập Chính phủ kháng chiến lâm thời, tạo bước phát triển mới cho cách mạng Cam-pu-chia. 

Sau giai đoạn đầu giúp đỡ lẫn nhau kháng chiến chống Pháp hiệu quả, đến năm 1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chủ trương đẩy mạnh tác chiến ở vùng Đông Bắc Cam-pu-chia nhằm phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường, nhất là chiến trường Tây Bắc Việt Nam và chiến trường Thượng Lào. Quán triệt tinh thần đó, trên cơ sở kết hợp giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế, tháng 4-1954, Trung đoàn 101 (Đại đoàn bộ binh 325) cùng với Đại đội 200 quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào tiến xuống phối hợp với các lực lượng vũ trang ở vùng Đông Bắc Cam-pu-chia, mở cuộc tiến công trên quy mô rộng lớn, loại hàng nghìn quân địch khỏi vòng chiến đấu, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn và một số thị xã, góp phần đánh bại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Cam-pu-chia. 

Sau thắng lợi này, cùng với Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) được ký kết, hòa bình được lập lại trên đất nước Cam-pu-chia. Cam-pu-chia tuyên bố đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập. Tuy nhiên, ngày 18-3-1970, đế quốc Mỹ hậu thuẫn Lon-non Xi-rích Ma-tắc, thành viên trong Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia tiến hành đảo chính lật đổ Quốc trưởng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc, thành lập chính phủ mới do Cheng-heng - một chính trị gia Cam-pu-chia làm Quốc trưởng, Lon-non làm Thủ tướng. 

Chỉ 5 ngày sau khi nổ ra đảo chính, Chính phủ Đoàn kết dân tộc Cam-pu-chia, Mặt trận Thống nhất dân tộc và Quân đội giải phóng dân tộc Cam-pu-chia được thành lập. Ngày 29-3-1970, tiếng súng chống Mỹ và tay sai bùng nổ ở tỉnh Tà-keo, mở đầu cuộc đấu tranh mới của nhân dân Cam-pu-chia. 

Sau khi đế quốc Mỹ hậu thuẫn Lon-non lật đổ Chính phủ Xi-ha-núc, ngày 04-4-1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Điện số 99 cho Trung ương Cục miền Nam, yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường: “Nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách mạng Cam-pu-chia có hiệu lực, vừa mạnh, vừa vững chắc, chủ động và lâu dài”(6). 

Ngày 30-4-1970, đế quốc Mỹ huy động lực lượng tiến công xâm lược Cam-pu-chia, hòng đưa Cam-pu-chia vào quỹ đạo của Mỹ; đồng thời bao vây, uy hiếp cách mạng miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định cử một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam sang phối hợp với lực lượng cách mạng Cam-pu-chia chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược. Theo đó, cuối tháng 4-1970, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia mở chiến dịch phản công ở vùng biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia và các tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia đánh bại âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ nhằm mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.

Cũng trong năm 1970, bộ đội Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia đã phối hợp chiến đấu đánh bại cuộc hành quân Chen-la 1; năm 1971, phối hợp mở chiến dịch phản công Đông Bắc Cam-pu-chia và chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chen-la 2. Cùng với đà thắng lợi và sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, năm 1974, lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia lần lượt bẻ gãy các cuộc hành quân của địch. Ngày 17-4-1975, quân giải phóng Cam-pu-chia tiến công làm chủ hoàn toàn Thủ đô Phnôm Pênh. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Cam-pu-chia kết thúc thắng lợi. 

Quán triệt sự lãnh đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương, trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy các cấp, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia, bộ đội Việt Nam đã phát huy những phẩm chất cao quý của “Bộ đội Cụ Hồ”, kết hợp nhuần nhuyễn nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế. Tư tưởng chiến lược đó còn được tỏa sáng trong quá trình Quân đội nhân dân Việt Nam giúp cách mạng và nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng và hồi sinh đất nước. 

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Cam-pu-chia vừa giành thắng lợi cũng là lúc cuộc cách mạng Cam-pu-chia bị phản bội. Tập đoàn Pôn Pốt Iêng-xa-ri đã lợi dụng thành quả cách mạng Cam-pu-chia để thiết lập “Nhà nước Cam-pu-chia dân chủ”, thi hành đường lối đối nội, đối ngoại phản động. 

Sau những cuộc tấn công lấn chiếm trong năm 1975 và đầu năm 1976, từ tháng 3-1977, Pôn Pốt Iêng-xa-ri cho quân lấn sâu vào nhiều nơi thuộc lãnh thổ Việt Nam. Cuối tháng 12-1978, Pôn Pốt Iêng-xa-ri tập trung 19 sư đoàn áp sát biên giới Cam-pu-chia - Việt Nam. Ngày 23-12-1978, chúng huy động 10 trong số 19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến công toàn tuyến biên giới Tây Nam Việt Nam. Kiên quyết đánh trả các hành động lấn chiếm của địch, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Việt Nam lệnh cho các đơn vị bộ đội tổng phản công, tiến công trên toàn tuyến biên giới, quyết tâm tiêu diệt quân địch, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng các phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Cam-pu-chia nổi dậy, đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt Iêng-xa-ri giành chính quyền về tay nhân dân. 

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, quân dân Việt Nam kiên quyết đánh trả, đẩy quân Pôn Pốt ra khỏi biên giới, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Tiếp đó, theo yêu cầu của nhân dân và Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang yêu nước Cam-pu-chia tiến hành tổng tiến công, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh (ngày 07-01-1979) và toàn bộ đất nước Cam-pu-chia (ngày 17-01-1979), cứu nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng. Năm 1989, với sự giúp đỡ hiệu quả của quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, cùng những nỗ lực to lớn của Cam-pu-chia, cách mạng Cam-pu-chia cơ bản thực hiện thắng lợi 3 mục tiêu chiến lược (7) đã đề ra. 

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam trong gần 70 năm qua luôn gắn chặt giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế. Nhờ quán triệt và thực hiện tốt việc kết hợp giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế, Quân đội nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình giúp bạn, hoàn thành sứ mệnh quốc tế vẻ vang mà Đảng và nhân dân giao phó, góp phần quan trọng vào việc xây dựng, vun đắp mối quan hệ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Qua đó đã để lại một số bài học kinh nghiệm, cụ thể là: 

Thứ nhất, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng và phương châm chiến lược “giúp bạn là mình tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kết hợp giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế. 

Thứ hai, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và căn cứ vào chủ trương, đường lối của cách mạng Lào và Cam-pu-chia để thực hiện nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế một cách có hiệu lực, hiệu quả cao.

Thứ ba, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào và Cam-pu-chia trên các mặt công tác, góp phần thúc đẩy cách mạng bạn phát triển, qua đó hỗ trợ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Thứ tư, chú trọng xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào và Cam-pu-chia vững mạnh về mọi mặt, đủ sức hoàn thành tốt việc kết hợp nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế./.

--------------------------------------

(1) Ngày 16-10-1945, Việt Nam và Lào ký Hiệp ước tương trợ Việt - Lào; ngày 30-10-1945, ký Hiệp định về tổ chức liên quân Việt - Lào

(2) Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào - Biểu tượng tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu Việt - Lào, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr. 28

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 64

(4) Đảng Nhân dân Lào thành lập năm 1955; đến năm 1972 đổi tên thành Đảng Nhân dân Cách mạng Lào

(5) Chính phủ kháng chiến Lào thành lập tháng 8-1950

(6) Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Điện số 99 tới Trung ương Cục miền Nam, ngày 04-4-1970, lưu tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

(7) Ba mục tiêu chiến lược: một là, làm cho Pôn-pốt tan rã và suy tàn; hai là, xây dựng lực lượng cách mạng Cam-pu-chia ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước, trở thành lực lượng quyết định thắng lợi cuối cùng của cách mạng Cam-pu-chia; ba là, tăng cường liên minh Việt Nam - Cam-pu-chia thêm một bước mới vững chắc hơn, chống mọi âm mưu kích động phá hoại của kẻ thù