TCCSĐT - Trong những ngày cuối năm 2013, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố đang khẩn trương tiến hành nhiều hoạt động thiết thực kỷ niệm 10 năm Cần Thơ trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (02-01-2004 - 02-01-2014).

Qua 10 năm xây dựng và phát triển, thành phố Cần Thơ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh. Cả thành phố đang chuyển mình vươn lên để xứng tầm là trung tâm, động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đó cũng là tiền đề cho Cần Thơ phấn đấu cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.

Vươn lên thành đầu tàu kinh tế của vùng 

Trong 10 năm qua, kinh tế thành phố Cần Thơ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn chung của cả nước. Năm 2013, tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố đạt 11,67%. Tính chung, trong giai đoạn 2004 - 2013, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt 14,5%/năm. GDP bình quân đầu người tăng từ 10,3 triệu đồng năm 2004 lên 62,9 triệu đồng (tương đương 2.989 USD) năm 2013, tăng hơn 6 lần so với năm 2004. Giá trị công nghiệp giai đoạn 2004 - 2013 tăng bình quân 17,3%/năm; tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ tăng bình quân 24,8%/năm; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thu ngoại tệ tăng bình quân 19,6%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn năm 2013 đạt gần 11.000 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 2004. Thành phố Cần Thơ là địa phương duy nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long điều tiết ngân sách về Trung ương.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn 10 năm qua đạt 199.096 tỷ đồng; tỷ lệ vốn đầu tư trên tổng GDP bình quân đạt 51,42%, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 28,2%. Đến nay, Cần Thơ có 208 dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, tăng 110 dự án so với năm 2004, với tổng vốn đầu tư 1,85 tỷ USD; tổng số dự án nước ngoài đầu tư năm 2013 là 59 dự án, với vốn đăng ký là 885 triệu USD, tăng gần 5,6 lần so với năm 2004. Năm 2013, thành phố tiếp đón 1,25 triệu khách du lịch lưu trú, doanh thu đạt gần 1.000 tỷ đồng, tăng gần 6 lần so với năm 2004. Tính chung trong giai đoạn 2004 - 2013, tổng số lượt khách lưu trú tại đây tăng bình quân 13,4%/năm. 

Kết cấu hạ tầng của Thành phố ngày càng được hoàn thiện, bước đầu đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh, góp phần để thành phố Cần Thơ được công nhận đạt tiêu chí đô thị loại I trực thuộc Trung ương vào năm 2009. Nhiều công trình quan trọng cấp vùng đã được đầu tư như công trình cầu Cần Thơ, Cảng Cái Cui, Cảng Hàng không quốc tế Cần Thơ; nhiều tuyến giao thông được đầu tư mới, nâng cấp mở rộng tạo điều kiện kết nối phát triển kinh tế - xã hội giữa thành phố Cần Thơ với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh; nhiều công trình, dự án phát triển kinh tế quan trọng được đầu tư, đưa vào sử dụng như Tổ máy số 1 Nhà máy nhiệt điện Ô Môn. Hệ thống các siêu thị ngày càng được đầu tư hoàn chỉnh, đáp ứng nhu cầu thương mại cho thành phố và cả vùng, giúp cho bộ mặt đô thị Thành phố từng bước được cải tạo, nâng cấp...

Thành tựu phát triển văn hóa, xã hội

Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố ngày càng được nâng cấp, mở rộng, đưa Cần Thơ trở thành trung tâm giáo dục - đào tạo của vùng. Trong 10 năm qua, ngoài trường Đại học Cần Thơ, đến nay đã có thêm 4 trường đại học mới (Đại học Tây Đô, Đại học Nam Cần Thơ, Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ, Đại học Y Dược) và nhiều phân hiệu, cơ sở của các trường đại học trong cả nước mở tại Thành phố; nhiều trường trung cấp chuyên nghiệp được nâng lên thành trường cao đẳng, thu hút trên 185.000 sinh viên.

Hơn 433.000 lao động đã được giải quyết việc làm trong giai đoạn 2004 - 2013, tăng bình quân 7,2%/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 20,5% năm 2004 lên 48,89% năm 2013. Trong 10 năm, Thành phố đã xây dựng trên 20.000 căn nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết cho các đối tượng chính sách và hộ nghèo, giải quyết cơ bản nhà ở cho các đối tượng khó khăn về nhà ở. Đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo thành phố giảm còn 11.867 hộ, chiếm 3,95% tổng số hộ.

Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và tăng cường. Đến nay, 100% số xã có trạm y tế; số bác sĩ/vạn dân tăng từ 5,46 bác sĩ năm 2004 lên 10,55 bác sĩ vào năm 2013. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 12,7% năm 2013. Nhiều công trình y tế quan trọng, có khả năng phục vụ cho cả vùng được đầu tư và đưa vào hoạt động như: Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, Bệnh viện Truyền máu - Huyết học, Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS, Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long, Bệnh viện Phụ sản quốc tế Phương Châu... góp phần đưa thành phố Cần Thơ trở thành trung tâm y tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long. 

Với hệ thống hạ tầng viễn thông, internet được đầu tư phát triển mạnh, đến cuối năm 2013, Cần Thơ đã triển khai xong mô hình “một cửa điện tử” cho tất cả các cơ quan nhà nước từ thành phố đến các xã, phường và có internet cùng các dịch vụ viễn thông tại 100 ấp trong thành phố... Hoạt động khoa học - công nghệ ngày càng đi vào chiều sâu, trên địa bàn đã có một số trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ mang quy mô vùng đồng bằng sông Cửu Long. 

Nhìn chung, trong 10 năm qua, kinh tế Thành phố tiếp tục phát triển trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn. Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng trưởng cao; thương mại - dịch vụ đạt mức tăng trưởng khá; chỉ số giá cả luôn thấp hơn bình quân của cả nước; sản xuất nông nghiệp từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả. Cần Thơ đã thực hiện tốt các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; sắp xếp, cắt giảm, điều chỉnh đầu tư công, tiết kiệm chi thường xuyên; tăng cường quản lý, sử dụng giải ngân nhanh các nguồn vốn đầu tư, thực hành tiết kiệm. Công tác thu ngân sách đạt kết quả cao. Việc huy động các nguồn lực đầu tư phát triển được triển khai mạnh mẽ, đa dạng, giảm dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng đầu tư của các thành phần kinh tế. Công tác đầu tư phát triển đô thị từng bước được nâng lên; chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung triển khai ở nhiều địa phương. 

Lĩnh vực văn hóa - xã hội của Thành phố cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng; công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo các đối tượng chính sách được quan tâm; xóa đói giảm nghèo đạt kết quả khá tốt; chất lượng giáo dục - đào tạo được nâng lên; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân từng bước được cải thiện; các loại hình văn hóa - nghệ thuật, thể thao phát triển với nhiều loại hình phong phú. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.

Hạn chế và những bài học kinh nghiệm

Một số hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong phát triển kinh tế - xã hội 10 năm qua, hiện nay thành phố Cần Thơ cũng còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao nhưng chưa vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của thành phố cũng như vai trò động lực của một đô thị trung tâm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa còn chậm, công nghiệp phát triển khá nhưng quy mô sản xuất còn nhỏ, chủ yếu vẫn tập trung vào công nghiệp chế biến, sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao. Các ngành dịch vụ tuy có phát triển nhưng còn nhỏ lẻ, giá trị gia tăng thấp.

- Công tác xây dựng và quản lý đô thị chỉ mới đáp ứng được yêu cầu ban đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của một đô thị loại I trực thuộc trung ương.

- Chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế; trình độ, kỹ năng của người lao động phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp sử dụng công nghệ, thiết bị hiện đại. Việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất còn hạn chế.

- Việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng an ninh trong một số dự án còn chưa chặt chẽ.

Nguyên nhân hạn chế

Thành phố có điểm xuất phát thấp, quy mô kinh tế nhỏ, công nghiệp hóa chưa cao, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển nhưng chưa đồng bộ. 

Áp lực, nhu cầu vốn cho các dự án, công trình hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội, kể cả quốc phòng - an ninh của thành phố loại I là rất lớn nhưng vốn đầu tư phát triển của thành phố Cần Thơ vẫn còn thấp so với các thành phố trực thuộc trung ương. Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư phát triển của trung ương phân bổ cho Thành phố vẫn còn theo mức bình quân chung cả nước.

Chưa tận dụng, khai thác đúng mức tiềm năng, nội lực của địa phương, nhất là khai thác quỹ đất để tạo vốn đầu tư phát triển; việc thực hiện xã hội hóa một số lĩnh vực chưa đạt hiệu quả cao. Công tác quy hoạch và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành kinh tế mũi nhọn để tạo điều kiện cho Thành phố phát huy vai trò trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long chưa được quan tâm đúng mức.

Công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành, tính năng động, sáng tạo của các cấp, các ngành và một bộ phận cán bộ chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của đô thị loại I. Sự phối hợp với các bộ, ngành trung ương chưa thật sự tích cực, chặt chẽ trong triển khai thực hiện các công trình, dự án theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ.

Bài học kinh nghiệm

Qua 10 năm trở thành thành phố trực thuộc trung ương, từ những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Cần Thơ rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, song song với việc tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phải luôn quan tâm công tác xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh; không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên để đáp ứng yêu cầu “xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành phố văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của cả vùng hạ lưu sông Mê Công” theo tinh thần Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Hai là, các cấp ủy Đảng, chính quyền phải luôn chủ động xây dựng và triển khai thực hiện nhiệm vụ, xác định những khâu đột phá, có bước đi thích hợp, thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời, phát huy tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của các ngành, các cấp. Trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành phải tập trung cho cơ sở, tạo sự đồng thuận từ nội bộ Đảng, chính quyền, các đoàn thể đến người dân, cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh. Quá trình tổ chức thực hiện phải thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc khó khăn, tạo điều kiện cho các địa phương, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Ba là, quan tâm đúng mức đến công tác cải cách hành chính; phát huy dân chủ từ cơ sở, lấy dân làm gốc, tăng cường đối thoại trong Đảng, trong chính quyền, đối thoại giữa Đảng, chính quyền với người dân; tạo mọi điều kiện cho người dân góp ý cho cán bộ, đảng viên và giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền. 

Bốn là, tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự hỗ trợ, giúp đỡ của các bộ, ngành trung ương, các tổ chức quốc tế, các đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân; tăng cường liên kết, hợp tác với Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước (trong đó, đặc biệt chú trọng phát huy hợp lý các nguồn lực trong nhân dân) để thu hút nhiều nguồn lực đầu tư phát triển thành phố. 

Hướng đến thành phố công nghiệp trước năm 2020

Mục tiêu phát triển:

Xây dựng thành phố Cần Thơ trở thành thành phố văn minh, hiện đại, mang đặc trưng sông nước, cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020; là trung tâm kinh tế - xã hội, trung tâm giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, trung tâm y tế và văn hóa, thể thao của vùng đồng bằng sông Cửu Long; là đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế; là địa bàn trọng điểm giữ vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh của vùng và cả nước; đóng vai trò động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 15%/năm giai đoạn 2016 - 2020; GDP bình quân đầu người đạt 6.480 USD; kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt 2.640 USD.

- Vốn đầu tư khoảng 493.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2016 - 2020.

- Dân số khoảng 1,6 triệu người.

- Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: Mầm non 80%, tiểu học 90-100%, trung học cơ sở 80%, trung học phổ thông 60%.

- Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch tập trung đạt 80-85%.

- Tỷ lệ rác thải được thu gom và xử lý đạt 100%; tỷ lệ nước thải được xử lý đến năm 2020 đạt 70-80%.

Các giải pháp thực hiện:

Để đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu đề ra đến năm 2020, Đảng bộ, chính quyền thành phố Cần Thơ đã đề ra một số giải pháp cần tập trung thực hiện sau:

- Cải thiện môi trường đầu tư:

Dự báo nhu cầu vốn đầu tư phát triển Thành phố vào khoảng 206.800 tỷ đồng trong giai đoạn 2011 - 2015 và 493.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2016 - 2020. Để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư rất lớn này, song song với việc đề xuất, kiến nghị trung ương đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng lớn, trọng yếu trên địa bàn, Thành phố sẽ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư từ ngân sách nhà nước; cải thiện môi trường đầu tư, tạo lợi thế trong việc thu hút nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài, tiếp tục tranh thủ các nguồn tài trợ ODA, NGO; công khai, minh bạch quy hoạch sử dụng đất, quỹ đất; tạo quỹ đất “sạch” để đấu giá quyền sử dụng đất, tạo nguồn thu; tăng cường huy động vốn đầu tư theo các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT, PPP; đẩy mạnh thu hút vốn thông qua phát hành trái phiếu công trình; thuế nhà đất; hình thành, mở rộng các quỹ phát triển đô thị, quỹ phát triển hạ tầng đô thị, quỹ phát triển nhà ở đô thị...

- Cải tiến cơ chế chính sách:

Đề xuất trung ương cho phép thành phố Cần Thơ có các cơ chế, chính sách đặc thù về tài chính, ngân sách, phát triển nông nghiệp công nghệ cao tương xứng với vai trò của một địa phương có nguồn thu cao và là đô thị trung tâm vùng đồng bằng sông Cửu Long; hỗ trợ vốn đối ứng trong nước cho các dự án ODA; bổ sung có mục tiêu kinh phí giải phóng mặt bằng đối với các dự án đặc biệt của Nhà nước trên địa bàn thành phố phục vụ cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long; hỗ trợ về kinh phí đầu tư kết cấu hạ tầng, nhân lực, công nghệ và cơ chế, chính sách ưu đãi để hình thành mạng lưới khu, trạm nông nghiệp công nghệ cao, tạo bước đột phá, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của Thành phố và các tỉnh trong vùng; hỗ trợ các doanh nghiệp trong giải phóng mặt bằng, đào tạo nhân lực, ứng dụng công nghệ mới, bảo vệ môi trường...

- Quan tâm phát triển nguồn nhân lực: 

Tiếp tục tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá để nâng cao trình độ dân trí, tỷ lệ lao động được đào tạo và sức khoẻ cho người lao động. Tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý các doanh nghiệp. Sắp xếp lại và nâng cao trình độ cán bộ quản lý nhà nước, thực hiện tốt công tác quy hoạch, tiêu chuẩn hóa, luân chuyển cán bộ... Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực có kỹ thuật, có trình độ cho sản xuất kinh doanh. Có chính sách đào tạo nghề cho lao động chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Tổ chức tốt các hình thức xúc tiến, hỗ trợ và giới thiệu việc làm.

- Tăng cường đầu tư cho khoa học, công nghệ: 

Xây dựng và triển khai các chính sách tạo lập và phát triển thị trường khoa học công nghệ; nghiên cứu huy động các nguồn vốn nhằm tăng chi ngân sách cho khoa học công nghệ trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 làm tiền đề cho bước phát triển đến năm 2030; thúc đẩy việc hình thành các doanh nghiệp khoa học công nghệ thuộc khu vực công (trực thuộc viện, trường) và khu vực tư nhằm sớm tạo lập thị trường khoa học công nghệ. 

- Đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các bộ, ngành, địa phương: 

Triển khai thực hiện có hiệu quả các cơ chế phối hợp liên kết, hợp tác giữa Thành phố với các bộ, ngành và các địa phương theo hướng rõ lĩnh vực, rõ việc; tạo điều kiện mở rộng thị trường, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Tăng cường các chương trình hợp tác, liên kết phát triển giữa thành phố Cần Thơ và các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở vừa kinh doanh, vừa hỗ trợ hợp tác; kết hợp hài hoà lợi ích của mỗi địa phương với lợi ích chung của vùng; bảo đảm an ninh - chính trị và trật tự an toàn xã hội./.