Xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị và quản lý nhà nước

PGS, TS. Lưu Kiếm Thanh Phó Giám đốc Học viện Hành chính, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
14:11, ngày 08-11-2012

TCCSĐT - Đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ, công chức là một nội dung quan trọng trong công tác cán bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước xác định: “Đẩy mạnh ĐTBD nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành chính, của cán bộ, công chức, đặc biệt kỹ năng hành chính”. Luật Cán bộ, công chức cũng nhấn mạnh: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức có trách nhiệm xây dựng và công khai quy hoạch, kế hoạch ĐTBD để tạo nguồn và nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức”. Trong thực hiện nhiệm vụ này, năng lực, trình độ, nhiệt huyết của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị (LLCT) và quản lý nhà nước (QLNN) có vai trò rất quan trọng.

1. Trọng tâm của ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) là trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nhằm trau dồi lập trường giai cấp, phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, tức là giáo dục LLCT, đồng thời, trang bị kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ công tác QLNN. Đây là tác động có mục đích, hệ thống để giác ngộ, nâng cao nhận thức chính trị, rèn luyện và hoàn thiện các kỹ năng quản lý cho đội ngũ CBCCVC.

V.I. Lê-nin cho rằng trong bất kỳ một trường học nào, điều quan trọng nhất là phương hướng chính trị và tư tưởng của các bài giảng. Cái gì quyết định phương hướng đó? Có lẽ, trước hết là người giảng viên, nghĩa là trong hoạt động ĐTBD CBCCVC, vai trò giảng viên LLCT và QLNN (sau đây gọi chung là giảng viên) rất quan trọng, chính vì họ là người truyền tải những nội dung thông tin có định hướng, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức và kỹ năng trong bài giảng đến với người học; định hướng suy nghĩ, cổ vũ, động viên, thôi thúc học viên vận dụng những kiến thức đó vào hoạt động thực tiễn của bản thân và cơ quan, tổ chức, đơn vị mình. Vì vậy, nếu giảng viên có kiến thức vững vàng, tư liệu thông tin phong phú, cách trình bày hấp dẫn, chắc chắn bài giảng sẽ sinh động, gây được hứng thú với người học.

Hiện nay, trong khoa học giáo dục nói chung cũng như trong lĩnh vực ĐTBD CBCCVC nói riêng, đang đặt ra yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của công cuộc hiện đại hóa nền hành chính nhà nước. Cho dù có đổi mới nội dung hay áp dụng phương pháp dạy học “hiện đại” nào, thì vai trò của người thầy vẫn là quan trọng nhất. Muốn có được những học trò giỏi thì trước tiên phải có những người thầy xuất sắc. Chất lượng ĐTBD CBCCVC phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực trong giảng dạy của giảng viên, thể hiện ở lòng say mê với hoạt động giảng dạy, sự chủ động, sáng tạo, ham học hỏi, tìm kiếm tri thức nhằm tổ chức thực hiện tốt hoạt động giảng dạy, qua đó không chỉ làm cho bài giảng có chất lượng cao hơn, hấp dẫn hơn, mà còn nâng cao tinh thần, trách nhiệm của giảng viên, kích thích được học viên học tập, lôi cuốn được đồng nghiệp hăng hái làm việc,… từ đó nâng cao được chất lượng, hiệu quả đào tạo. Do đó, đội ngũ giảng viên luôn cần được đào tạo chính quy (bài bản) và thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức và năng lực. Cần nhận thức sâu sắc rằng, giảng dạy LLCT và QLNN là một nghề, hơn nữa là một nghề có tính đặc thù; cần được đào tạo, đào tạo lại, thường xuyên phải bồi dưỡng để không ngừng nâng cao kiến thức và trình độ đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của bản thân hoạt động đặc thù này.

2. Thực hiện Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-03-2010 của Chính phủ về ĐTBD cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011 quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở ĐTBD của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đối chiếu với các quy định của Thông tư thì thấy còn những “lỗ hổng” về năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ giảng viên LLCT và QLNN và yêu cầu tăng cường công tác ĐTBD. Ngoài ra, tăng cường ĐTBD giảng viên LLCT và QLNN còn xuất phát từ những lý do sau đây:

- Tri thức LLCT và QLNN có tầm quan trọng đặc biệt bởi đó là hệ thống tri thức về quá trình xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong các giai đoạn cách mạng khác nhau, phản ánh một cách rõ nét sự vận động liên tục trong tư duy chiến lược của Đảng và Nhà nước; khả năng thích ứng trong các hoàn cảnh, đặc biệt là nghệ thuật lãnh đạo chính trị, QLNN, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do đó, tư duy lý luận của Đảng luôn được bổ sung và phát triển cùng với sự vận động và phát triển không ngừng của thực tiễn khách quan, các luận điểm mới của Đảng đã được nghiên cứu kết luận bổ sung làm rõ, đòi hỏi giảng viên phải thường xuyên được bồi dưỡng, cập nhật để bài giảng có “hơi thở” của cuộc sống. Nhiệm vụ của người giảng viên không chỉ trình bày những vấn đề lý luận máy móc, đơn thuần mà phải “thổi hồn” vào bài giảng, làm cho mỗi tiết học trở nên sống động, khơi dậy trong mỗi học viên niềm tin vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

- Trình độ nhận thức và học thức của người học ngày càng được nâng cao, đặc biệt số học viên là cán bộ đương chức có trình độ đại học và trên đại học không còn phải là hiếm, do vậy, nếu giảng viên không thường xuyên tự mình, đồng thời được bồi dưỡng cập nhật những tư liệu, kiến thức mới thì bài giảng sẽ bị lạc hậu. Một trong những nhiệm vụ của giảng viên là “tìm hiểu trình độ, kiến thức và hiểu biết của học viên; thường xuyên cập nhật thông tin để xử lý, bổ sung, hoàn chỉnh, cải tiến nội dung, kế hoạch, phương pháp giảng dạy và cơ sở dữ liệu phục vụ cho giảng dạy”(1).

- Để giảng viên LLCT và QLNN có đủ năng lực, trình độ và kỹ năng thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ theo yêu cầu tiêu chuẩn chức danh giảng viên LLCT và QLNN được quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011 của Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở ĐTBD của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương(2).

- Uy tín của người giảng viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy, do đó giảng viên phải là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng; có trình độ nghề nghiệp, kỹ năng sư phạm ổn định; có kiến thức toàn diện; có năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ để từ đó có sức mạnh cảm hoá lớn, thu hút, lôi kéo, định hướng và điều khiển hoạt động học của người học. Trong khi đó, tác động của nền kinh tế thị trường (dễ làm cho người giảng viên bị cuốn theo lối sống chạy theo đồng tiền, tất cả vì đồng tiền nếu bản lĩnh chính trị không vững vàng), đời sống đa số giảng viên còn khó khăn, có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm huyết với nghề, đến uy tín của đội ngũ giảng viên, đặc biệt là các giảng viên trẻ. Vì vậy, đội ngũ giảng viên cần tiếp tục được ĐTBD nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ.

3. Nhận thức rõ yêu cầu nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất của đội ngũ giảng viên, trong nhiều năm qua, Bộ Nội vụ cùng các cơ quan chức năng triển khai thường xuyên các hoạt động ĐTBD cho đội ngũ giảng viên LLCT và QLNN. Tuy nhiên, triển khai các hoạt động ĐTBD gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Theo Báo cáo “Đánh giá nhu cầu ĐTBD của đội ngũ giảng viên QLNN” do Bộ Nội vụ thực hiện năm 2005, hoạt động ĐTBD đối với giảng viên đã và đang đứng trước những khó khăn: 1) Nội dung các khóa học hiện nay không đáp ứng yêu cầu đào tạo của học viên; 2) Giảng viên phải lên lớp quá nhiều nên không có thời gian chuẩn bị giáo án; 3) Học viên trong một lớp thường quá đông. Đồng thời, giảng viên thiếu kinh nghiệm làm việc thực tế tại các cơ quan, tổ chức, chưa có quyền và điều kiện chủ động thực hiện chương trình đào tạo, không có môi trường và điều kiện trau dồi và thực hành ngoại ngữ, thiếu điều kiện làm việc,…

Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao chất lượng ĐTBD giảng viên LLCT và QLNN, theo chúng tôi, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

- Cần đưa hoạt động bồi dưỡng giảng viên vào chương trình công tác thường xuyên hằng năm với nhiều nội dung phong phú và phương thức phù hợp. Thường xuyên tổ chức hội thi giảng viên của cơ sở ĐTBD CBCCVC các cấp để qua đó tác động tích cực đến sự chuẩn bị và thực hành bài giảng của các giảng viên kể cả người thi, cũng như người tham dự. Thông qua thao giảng, năng lực, kỹ năng giảng dạy của đội ngũ giảng viên sẽ từng bước được nâng cao, tạo điều kiện để cán bộ làm công tác tham mưu, quản lý và giảng viên trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau; phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện các chương trình giảng dạy; cổ vũ, động viên cán bộ, giảng viên đưa hoạt động giảng dạy LLCT và QLNN ngày càng đi vào nền nếp. Đó cũng là cơ hội để thường xuyên cập nhật thông tin những vấn đề lý luận mới, vừa có tính thời sự, vừa nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho giảng viên... và cũng cần coi đó là một tiêu chí để bình xét khen thưởng hàng năm.

- Thước đo đánh giá ý thức trách nhiệm người giảng viên là chất lượng các bài giảng bảo đảm tính khoa học, lý luận gắn với thực tiễn. Thường xuyên rà soát và lập kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ, nhất là trình độ trên đại học cho giảng viên; xây dựng các tiêu chí về kiến thức thực tiễn của giảng viên và đưa giảng viên đi thực tế cơ sở nhằm trau dồi và nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý phục vụ cho hoạt động giảng dạy. Xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu, giảng viên thỉnh giảng là những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có chất lượng nhằm nâng cao chất lượng ĐTBD CBCCVC. Qua kinh nghiệm thực tiễn thì thấy nhiều học viên thường không hăng say học các môn LLCT vì cho rằng nội dung khô khan, khó, phương pháp kém hấp dẫn (vì chủ yếu là nghe thuyết trình, nặng về lý luận chung chung). Vì vậy, cần làm cho người học thấy rõ được mối liên hệ cũng như ý nghĩa sống động của môn học LLCT đối với các đối tượng học viên khác nhau về chuyên ngành đào tạo và trình độ tiếp thu; thời lượng chương trình phải có tính linh hoạt nhất định và xuất phát từ nhu cầu khách quan đối với các đối tượng học viên. Và trong bài giảng, giảng viên cần quan tâm: 1) Xác định được nội dung nào cần thiết phải liên hệ thực tiễn và đưa loại hình, cấp độ thực tiễn nào có tính điển hình, có ý nghĩa chung chứ không phải ngẫu nhiên; 2) Lựa chọn các sự kiện thực tiễn có tính thời sự cao, đang được xã hội quan tâm nhiều, có địa chỉ, xuất xứ rõ ràng và đảm bảo tính trung thực; 3) Có phương pháp phân tích để người học thấy được mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn được viện dẫn, minh họa.

- Tự giáo dục, tự rèn luyện là con đường cơ bản nhất để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Qua quá trình giáo dục và đào tạo cùng với hoạt động thực tiễn, mỗi giảng viên là một chủ thể tích cực của quá trình tự giáo dục, hoàn thiện nhân cách, phẩm chất, đạo đức, lối sống của bản thân, luôn bổ sung hiểu biết cho mình, tích cực học tập, tu dưỡng, hoàn thiện bản thân mới đáp ứng tốt được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bên cạnh sự tích lũy về lý luận thì tích lũy vốn sống thực tiễn phong phú, biết xử lý thông tin đúng, thường xuyên theo dõi những xu hướng, những vấn đề mới phát sinh… cũng là những vần đề rất cần được quan tâm hơn nữa đối với mỗi giảng viên.

- Để góp phần nâng cao uy tín, người giảng viên cần thường xuyên bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức hướng tới sự giác ngộ mục tiêu, lý tưởng của Đảng; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; không hoang mang dao động về chính trị tư tưởng; lạc quan tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước; có bản lĩnh chính trị, nhạy bén chính trị. Thông qua các đợt học tập, nghiên cứu chính trị giúp giảng viên quán triệt sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao trình độ lý luận và bản lĩnh chính trị, vận dụng vào trong công tác giảng dạy và đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, phản động. Nếu thiếu nhạy bén, thiếu bản lĩnh chính trị, người giảng viên không thấy được âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù, bài giảng sẽ thiếu tính chiến đấu, thiếu sự định hướng chính trị. Bên cạnh đó, phải coi trọng trau dồi, củng cố và phát triển đạo đức cách mạng, thấm nhuần ý thức về: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết, có lối sống giản dị trong sạch, không xa hoa lãng phí thông qua việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức; chấp hành nghiêm mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những quy định của nhà trường.

- Cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ đặc biệt toàn diện về công tác cán bộ như: ĐTBD, chính sách đãi ngộ, chế độ bổ nhiệm, khen thưởng… đối với đội ngũ giảng viên nhằm tạo động lực, phát huy tinh thần trách nhiệm trong công tác, đặc biệt đối với những giảng viên có hoàn cảnh khó khăn, cần có những chủ trương, biện pháp hỗ trợ kịp thời giúp họ yên tâm công tác, say mê với công việc, cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung.

- Thủ trưởng các cơ sở ĐTBD cần giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phù hợp với năng lực của giảng viên, tùy thuộc khả năng, điều kiện và định hướng phát triển hoạt động khoa học và công nghệ của cơ sở ĐTBD và coi là một trong những căn cứ đánh giá, xếp loại viên chức hàng năm.

- Tạo điều kiện cho các giảng viên đi thăm quan, khảo sát thực tế tại các địa phương trong và ngoài nước với những chủ đề cụ thể, nghe nói chuyện thời sự, tham gia các hoạt động văn nghệ, thể thao... Nên đi nhiều điểm để có số liệu so sánh và đúc rút kinh nghiệm. Trong chừng mực có thể nên tạo điều kiện để giảng viên tham gia QLNN ở các cấp chính quyền hoặc trực tiếp tham mưu, tư vấn cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định thông qua một số hình thức như biệt phái về cơ sở, tham gia các ban soạn thảo, thẩm định xây dựng chính sách, ban hành văn bản, tham gia vào ban cải cách hành chính hoặc những đề án, dự án cải cách hành chính,... Thiếu thực tiễn, tri thức về khoa học hành chính của giảng viên khó có thể được vận dụng và phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, giảng viên cần tìm đọc, nghiên cứu, nắm bắt các thông tin mới qua sách báo, tạp chí và các phương tiện thông tin đại chúng để cập nhật thường xuyên, kịp thời.

- Về ngoại ngữ, nhìn chung giảng viên có trình độ ngoại ngữ nhất định được trang bị trong quá trình học đại học và sau đó theo các chương trình ĐTBD khác, song trên thực tế, những kiến thức và kỹ năng đó về ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu của công việc do thiếu môi trường sử dụng, vì vậy cần có những chương trình, dự án bồi dưỡng và thực hành thường xuyên cho đội ngũ giảng viên.

- Giảng viên ngoài việc có bằng cấp phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy, phải biết ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ công tác chuyên môn, giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Như vậy, phải đưa chương trình tin học vào bồi dưỡng giảng viên, để giảng viên có thể cập nhật thông tin và khai thác thông tin trên mạng phục vụ cho công tác và trình bày bài giảng với phương tiện kỹ thuật hiện đại (sử dụng máy chiếu, giáo án điện tử).

- Cần quan tâm đặc biệt đến xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên trẻ, vì đó là việc hết sức cần thiết nhằm tạo ra đội ngũ kế cận trong tương lai.. Ngay từ khâu tuyển dụng phải xem xét kỹ lưỡng về chuyên ngành đào tạo, khả năng sư phạm, xem xét quá trình học tập, tu dưỡng tại các trường đại học… Tuyển dụng hoặc hợp đồng giảng viên nên mang tính “lâu dài”, có sự “gối đầu”, nối tiếp và kế thừa. Phải coi việc xây dựng kế hoạch ĐTBD nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn và phương pháp sư phạm cho đội ngũ giảng viên trẻ là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Chú trọng nâng cao nhận thức của các giảng viên trẻ về vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp ĐTBD CBCCVC cho đất nước nói chung và mỗi bộ, ngành, địa phương trong giai đoạn cách mạng mới, cũng như trách nhiệm kế thừa, phát huy sự nghiệp vẻ vang của thế hệ đi trước. Do đó, nên mạnh dạn giao việc cho đội ngũ giảng viên trẻ để họ có môi trường thực tiễn học tập, rèn luyện, tiếp cận được các công việc của một cán bộ khoa học, vừa giảng dạy vừa nghiên cứu trong một môi trường thuận lợi cho giảng viên trẻ rèn luyện mọi mặt về sức khoẻ, trí tuệ, tư tưởng, bản lĩnh chính trị. Có sự chăm lo nhiều hơn về đời sống vật chất và tinh thần, tạo ra những điều kiện hoạt động tự nhiên để lớp trẻ, lớp già, lớp trước, lớp sau đối thoại, trao đổi, học hỏi, hiểu biết lẫn nhau.

- Giảng viên trẻ phải có kế hoạch tự rèn luyện, phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn của bản thân. Về chuyên môn, cần có kế hoạch tự học, tự nghiên cứu, tích lũy kiến thức và tài liệu cần thiết không chỉ thuộc lĩnh vực chuyên môn mà bản thân đảm nhiệm, mà còn phải mở rộng phông kiến thức nền hỗ trợ cần thiết; nghiên cứu thực tế, lựa chọn thông tin, phân loại để có những ví dụ thực tế phong phú, đa dạng, minh họa cho phần lý luận; đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm; học hỏi kinh nghiệm chuyên môn của cán bộ, giảng viên đi trước; tự rút kinh nghiệm trong từng bài, từng tiết học…

Trong nhiều năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực cố gắng của các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viên, các cơ sở ĐTBD CBCCVC nói chung đã không ngừng phát triển, từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy, đổi mới phương pháp giảng dạy, thực hiện nghiêm phương châm gắn lý luận với thực tiễn, khắc phục đáng kể tình trạng “sách vở”, “giáo điều”, qua đó góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền hành chính vững mạnh, trong sạch – một nhân tố quan trọng đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, giữ vững quốc phòng - an ninh. Để tiếp tục phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế, yếu kém, việc quan tâm đặc biệt đến xây dựng đội ngũ giảng viên LLCT và QLNN thực sự vừa là người cán bộ khoa học, vừa là chiến sỹ cách mạng nhiệt huyết là một nội dung không thể thiếu của công tác cán bộ./.


(1) Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011 quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở ĐTBD của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
(2) Điều 6, Điều 8 của Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011