Đổi mới và phát triển dạy nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa theo hướng hiện đại

Nguyễn Tiến Dũng Tổng Cục trưởng Tổng Cục Dạy nghề
20:40, ngày 13-07-2012
TCCS - Theo mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đến năm 2020, Việt Nam về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển nguồn nhân lực được xác định là một trong ba giải pháp đột phá chiến lược, trong đó chất lượng dạy nghề có vị trí đặc biệt, góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội.

Thực trạng dạy nghề - thành tựu và hạn chế

Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống pháp luật về dạy nghề được thiết lập tương đối đồng bộ và thống nhất. Hệ thống dạy nghề chính quy hình thành với 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề) và dạy nghề thường xuyên. Theo đó, mạng lưới cơ sở dạy nghề được mở rộng, phân bố tương đối hợp lý ở các ngành kinh tế, địa phương, vùng, miền. Năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng nghề (trong đó có 33 trường ngoài công lập), 300 trường trung cấp nghề (trong đó có 94 trường ngoài công lập), 810 trung tâm dạy nghề (trong đó có 296 trung tâm ngoài công lập) và hơn 1.000 cơ sở khác (các cơ sở giáo dục và đào tạo, doanh nghiệp,…) tham gia dạy nghề(1).

Số lượng tuyển sinh dạy nghề tăng từ 887,3 nghìn người (ngoài công lập 170 nghìn) năm 2001, lên 1,748 triệu người (ngoài công lập 625 nghìn) năm 2010, tăng 1,96 lần, trong đó trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề tăng 2,2 lần. Quy mô đào tạo tăng, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2010 đạt 30%. Các nghề đào tạo được mở dần theo nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp, từng bước phù hợp với sự phát triển các ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Chương trình dạy nghề được xây dựng xuất phát từ thực tiễn sản xuất của doanh nghiệp.

Các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề được chú trọng đầu tư phát triển. Cơ sở vật chất, thiết bị của các cơ sở dạy nghề tăng nhanh. Đặc biệt, năm 2010, có khoảng 33.000 giáo viên dạy nghề, tăng gần 4 lần so với năm 2001. Từ năm 2008, đã triển khai kiểm định chất lượng dạy nghề và đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động. Ban hành hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn và quy trình kiểm định chất lượng. Chất lượng và hiệu quả dạy nghề có bước chuyển biến tích cực, đào tạo nghề gắn với sử dụng lao động. Kỹ năng nghề của học sinh tốt nghiệp các cơ sở dạy nghề được nâng lên. Theo đánh giá của các doanh nghiệp, 80% - 85% số lao động qua đào tạo nghề được sử dụng đúng trình độ đào tạo; 30% có kỹ năng nghề từ khá trở lên(2). Ở một số nghề (hàn, dịch vụ nhà hàng, thủy thủ, thuyền trưởng, và một số nghề thuộc lĩnh vực viễn thông…), kỹ năng nghề của lao động Việt Nam đã đạt chuẩn quốc tế, qua đó bước đầu đáp ứng được nguồn nhân lực chất lượng cao theo yêu cầu của thị trường lao động, cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các ngành kinh tế mũi nhọn, các doanh nghiệp FDI và cho xuất khẩu lao động. Lao động qua đào tạo nghề tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và đảm nhận được các vị trí công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện; khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề, tỷ lệ này đạt trên 90%. 

Dạy nghề cho lao động nông thôn bước đầu được chú trọng. Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, theo đó, bình quân mỗi năm có khoảng 1 triệu lao động nông thôn được đào tạo nghề để chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ hoặc làm nông nghiệp hiện đại. Việc xây dựng và ban hành chính sách ưu tiên dạy nghề cho những nhóm người yếu thế được chú trọng. Có chính sách ưu tiên dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ, lao động thuộc vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất và dạy nghề cho lao động nông thôn. Dạy nghề không chỉ góp phần tích cực vào giải quyết việc làm trong nước mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động.

Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề được đa dạng hóa, trong đó ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo (chiếm khoảng 60%). Ngân sách nhà nước chi cho dạy nghề tăng dần qua các năm (năm 2001 chiếm 4,9% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo, năm 2010 tăng thành khoảng 9%)(3). Xã hội hóa dạy nghề đạt kết quả bước đầu. Nhà nước đã có chính sách đẩy mạnh xã hội hóa dạy nghề, đã huy động được khoảng 40% từ nguồn ngoài ngân sách nhà nước cho dạy nghề. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đã đầu tư thành lập cơ sở dạy nghề. Năm 2001, số cơ sở dạy nghề ngoài công lập chiếm 22,88%, đến năm 2010 tăng lên 34,84%, thu hút khoảng 30% học sinh vào học nghề trong các cơ sở dạy nghề ngoài công lập.

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng dạy nghề ở nước ta vẫn còn những tồn tại, đó là:

- Chất lượng đào tạo nghề, mặc dù đã có chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động về tay nghề và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm. Kỹ năng nghề, năng lực nghề nghiệp của lao động Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với các nước phát triển trên thế giới và trong khu vực.

- Cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và nghề đào tạo chưa hợp lý, chưa gắn bó hữu cơ với nhu cầu nhân lực của từng ngành, từng địa phương; chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực kỹ thuật chất lượng cao cho sản xuất và thị trường lao động. Dạy nghề cho lao động nông thôn để chuyển dịch sang khu vực công nghiệp và dịch vụ còn chậm.

- Các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề còn bất cập; giáo viên dạy nghề còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng.

- Cơ chế, chính sách quản lý và phát triển dạy nghề chưa đồng bộ.

- Việc chuyển đào tạo nghề từ năng lực sẵn có của cơ sở dạy nghề sang đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động còn chậm.

- Chưa thiết lập được mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở dạy nghề. Sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động dạy nghề còn thụ động, chưa có văn bản xác định doanh nghiệp là một trong những chủ thể của hoạt động dạy nghề.

- Chưa có chính sách tạo động lực đủ mạnh để thu hút người học nghề và người dạy nghề; chính sách tuyển dụng, sử dụng lao động chưa đủ hấp dẫn. Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho dạy nghề còn thấp (khoảng 0,5% GDP, trong khi tỷ lệ này ở các nước thuộc EU là 1,1%).

Định hướng đổi mới và phát triển dạy nghề

Trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, quá trình quốc tế hóa sản xuất, ứng dụng khoa học, công nghệ và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng, chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao diễn ra mạnh mẽ hơn trên quy mô thế giới, khu vực và quốc gia. Việc mở ra khả năng di chuyển lao động giữa các nước đòi hỏi ngư­ời lao động phải có kỹ năng nghề cao, có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế với những tiêu chuẩn, tiêu chí do thị trường lao động xác định. Đào tạo theo hướng cầu đã trở thành cách tiếp cận đào tạo có hiệu quả, đang và sẽ được thực hiện ở tất cả các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới. Chương trình việc làm toàn cầu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đã khuyến cáo các quốc gia tổ chức đào tạo nghề linh hoạt theo hướng cầu của thị trường lao động, nhằm tạo việc làm bền vững; tạo cơ hội cho người lao động học tập suốt đời, có năng lực thích ứng và chuyển đổi nghề nghiệp.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”; “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược,… Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt đối với người bị thu hồi đất(4), đây là cơ hội cho dạy nghề phát triển.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, với yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng đặt ra nhiệm vụ và cũng là cơ hội để thúc đẩy phát triển dạy nghề, nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo nhân lực chất lượng cao. Hội nhập quốc tế sâu, rộng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho dạy nghề tiếp cận với những kiến thức mới, công nghệ mới, mô hình dạy nghề hiện đại; mở rộng trao đổi kinh nghiệm, có cơ hội tiếp cận, thu hút các nguồn lực bên ngoài cho phát triển dạy nghề.     

Để đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề chất lượng cao cho nền kinh tế, trong giai đoạn 2011 - 2020, đồng thời với phổ cập nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, dạy nghề thực hiện nhiệm vụ chiến lược là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh có trình độ cao, đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề, cấp trình độ và có chất lượng cho các ngành, vùng kinh tế, đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm, phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực hiện chủ trương của Đảng: “nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế ”, trong thời gian tới định hướng đổi mới và phát triển dạy nghề ở Việt Nam tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, phát triển dạy nghề theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, trong đó trọng tâm là xây dựng khung trình độ nghề quốc gia, làm bộ công cụ, hệ thống đánh giá năng lực nghề của người lao động sau đào tạo. Đây là cơ sở, là nền tảng cốt lõi để xác định các tiêu chuẩn khác trong hoạt động đào tạo nghề. Các chương trình đào tạo được thiết kế trên cơ sở khung trình độ nghề quốc gia, từ đó xây dựng các tiêu chuẩn trong lĩnh vực dạy nghề như tiêu chuẩn kỹ năng nghề; tiêu chuẩn giáo viên dạy nghề; tiêu chuẩn về cơ sở vật chất, thiết bị, trường học, xưởng thực hành; ban hành danh mục thiết bị dạy nghề chuẩn theo cấp trình độ đào tạo và nghề đào tạo. Đồng thời, tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, với các điểm chủ yếu như:

+ Hình thành các trường nghề chất lượng cao, trong đó có 12 trường đạt đẳng cấp quốc tế. Những trường này được tập trung đầu tư đồng bộ, hiện đại từ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, chương trình, phương pháp đào tạo.

+ Hình thành các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế trong các trường nghề, để tập trung đầu tư theo nghề. Những nghề cấp độ khu vực và quốc tế sẽ sử dụng các chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN (như Ma-lai-xi-a) và thế giới (như Cộng hòa Liên bang Đức).

+ Tập trung đầu tư phát triển đội ngũ giảng viên cao đẳng nghề, giáo viên trung cấp nghề có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề tương đương trình độ khu vực và thế giới; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dạy nghề. Đây là một trong những giải pháp có tính đột phá để nâng cao chất lượng đào tạo nghề.

Giáo viên dạy nghề cũng phải được đào tạo cả ở trong nước và nước ngoài, để có thể dạy được những nghề tương thích ở các cấp độ trên.

+ Phát triển chương trình dạy nghề phù hợp với công nghệ sản xuất hiện đại; áp dụng một số chương trình dạy nghề của nước ngoài phù hợp với yêu cầu của Việt Nam.

+ Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề đồng bộ chuẩn theo nghề, hiện đại và tương ứng với kỹ thuật, công nghệ trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Xây dựng cơ sở vật chất nhà trường đủ điều kiện để bảo đảm chất lượng dạy nghề.

+ Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong dạy nghề và đào tạo nghề qua mạng. Trang bị tiếng Anh chuyên ngành cho người học trong các trường nghề và thí điểm đào tạo một số nghề trình độ cao, nghề trọng điểm bằng tiếng Anh.

+ Thực hiện việc kiểm định chất lượng cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo theo những tiêu chuẩn của các nước tiên tiến.

Thứ hai, đẩy mạnh xã hội hóa và dân chủ  hóa trong hoạt động dạy nghề:

+ Phát triển các cơ sở dạy nghề ngoài công lập (chiếm 30% - 40%), bao gồm các cơ sở dạy nghề tư thục, dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài, cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp và dạy nghề tại nơi sản xuất. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp thành lập trường nghề, trung tâm dạy nghề; liên kết với trường nghề trong đào tạo và giải quyết việc làm; nhận học sinh, sinh viên của nhà trường đến doanh nghiệp thực hành, thực tập. Xây dựng các mô hình, hình thức và phương thức hợp tác, gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để nâng cao khả năng có việc làm cho người lao động sau khi được đào tạo. Phát triển mạnh các cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp để đào tạo nghề cho lao động của doanh nghiệp và cho xã hội; khuyến khích phát triển dạy nghề tại dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp.

Huy động doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo nghề, như: xây dựng mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy nghề; xây dựng danh mục nghề, tiêu chuẩn nghề; tham gia giảng dạy và đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động.

+ Đa dạng hóa nguồn lực: Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư cho phát triển dạy nghề. Nâng tỷ lệ chi cho dạy nghề trong tổng ngân sách chi cho giáo dục đào tạo lên khoảng 12% - 13%... Ngân sách nhà nước tập trung cho những cơ sở dạy nghề, nghề trọng điểm; các vùng khó khăn, vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa; đào tạo giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề; phát triển chương trình; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đào tạo nghề cho các đối tượng chính sách, nhóm yếu thế trong xã hội và phổ cập nghề cho người lao động; từng bước giảm sự chênh lệch về mức độ thụ hưởng dịch vụ đào tạo nghề giữa các vùng, miền. Thu hút các nguồn lực quốc tế trong đào tạo nghề; đồng thời, huy động các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, người học để phát triển dạy nghề.

+ Đa dạng hóa các hình thức, loại hình dạy nghề (chính quy, thường xuyên, dạy nghề tại doanh nghiệp, tại làng nghề…) với các chương trình, các khóa đào tạo phù hợp; coi trọng việc mở rộng hình thức dạy nghề theo hợp đồng, đặt hàng giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp sử dụng lao động; đáp ứng nhu cầu học nghề của mọi người, đặc biệt là lao động nông thôn, hướng tới phổ cập nghề cho lao động thanh niên.

+ Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về dạy nghề theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, gắn với trách nhiệm và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; bảo đảm sự giám sát của cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Có cơ chế để cơ sở dạy nghề là một chủ thể độc lập, tự chủ; người đứng đầu cơ sở dạy nghề tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải được đào tạo về quản lý dạy nghề. Thực hiện cơ chế dân chủ trong nhà trường, tăng cường vai trò của hội đồng trường trong các định hướng hoạt động đào tạo của cơ sở dạy nghề.

- Thứ ba, hội nhập quốc tế về dạy nghề, trong đó:

+ Mở rộng hợp tác quốc tế để trao đổi và học tập kinh nghiệm của các nước trong phát triển dạy nghề. Tăng cường hợp tác quốc tế về dạy nghề, lựa chọn các đối tác chiến lược trong lĩnh vực dạy nghề là những nước thành công trong phát triển dạy nghề ở khu vực ASEAN và châu Á (như Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Nhật Bản…), EU (như Cộng hòa Liên bang Đức, Vương quốc Anh…) và Bắc Mỹ.

+ Hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.

+ Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học về dạy nghề, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ dạy nghề tiên tiến để nâng cao chất lượng dạy nghề. Tích cực tham gia các hoạt động quốc tế về dạy nghề.

+ Khuyến khích các cơ sở dạy nghề trong nước mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài.

+ Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở dạy nghề chất lượng cao tại Việt Nam./.

-------------------------------------------- 

(1) Thống kê của Tổng cục Dạy nghề

(2) Điều tra Thị trường lao động của Tổng cục Dạy nghề năm 2006 và 2010

(3) Ngân sách nhà nước chiếm 60%, doanh nghiệp chiếm 10%, người học chiếm khoảng 20%, các nguồn khác chiếm 10%

(4) Xem: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 130