TCCSĐT - Trong hai ngày 24 và 25-11, tại Hà Nội, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam phối hợp với Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố báo cáo Đánh giá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Báo cáo nghiên cứu các yếu tố, mối quan hệ và động lực chính thúc đẩy hệ thống đổi mới sáng tạo tại Việt Nam cũng như các cơ hội để Chính phủ có thể hỗ trợ thêm thông qua chính sách.

Có thể nêu một số nội dung chính trong Báo cáo.

Một là, khẳng định Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng về phát triển kinh tế - xã hội, giúp nâng cao thu nhập, giảm đói nghèo, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân. Việt Nam có những nỗ lực tăng cường hệ thống giáo dục, đạt thành tích tốt trong giáo dục trung học; năng lực xuất khẩu của một số ngành tốt; có uy tín trong một số lĩnh vực, như toán, nghiên cứu nông nghiệp và sinh học; có tiến bộ trong việc hình thành và duy trì các cơ quan và thể chế hỗ trợ đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu lực của hệ thống đổi mới sáng tạo về tác động kinh tế - xã hội...

Hai là, nêu những hạn chế của Việt Nam về năng suất lao động và mức thu nhập thấp; doanh nghiệp còn ít sáng tạo, thiếu năng lực nghiên cứu và phát triển; hạ tầng khoa học, công nghệ còn yếu do thiếu các phòng thí nghiệm và thiết bị nghiên cứu; quản lý nhà nước và thực hiện chính sách về khoa học, công nghệ còn những bất cập... Báo cáo chỉ ra rằng, hiện nay Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ quan trọng, bởi nguồn lực cho tăng trưởng trước đây đang suy giảm, làm gia tăng nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, vì thế, để tiếp tục tăng trưởng, Việt Nam phải dựa nhiều hơn vào việc tăng năng suất lao động thông qua đổi mới sáng tạo. Muốn vậy, Việt Nam cần cải thiện đáng kể năng lực đổi mới sáng tạo trong nước.

Tuy hiện nay Việt Nam đã mở rộng và đa dạng hóa cơ cấu ngành, hàng xuất khẩu, nhưng quá trình chuyển đổi cơ cấu sang xuất khẩu các mặt hàng và dịch vụ “công nghệ cao”, phức tạp hơn, có hàm lượng tri thức cao hơn còn khá chậm chạp. Việc “mắc kẹt” trong các hoạt động tạo ra ít giá trị gia tăng đã hạn chế khả năng tiếp thu công nghệ và nâng cao năng lực sáng tạo.

Năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hiện còn yếu và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn non trẻ, manh mún. Nghiên cứu và phát triển (R&D) vẫn chỉ là hoạt động phụ trong các doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu của Nhà nước. Mức độ cạnh tranh ngày càng tăng trên thế giới đòi hỏi Việt Nam phải đầu tư phát triển năng lực công nghệ tiên tiến, kể cả hoạt động R&D, tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp để nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Doanh nghiệp cần trở thành trung tâm của quá trình đổi mới và sáng tạo.

Ba là, một số hướng cần tập trung quan tâm để nâng cao năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thứ nhất, tăng cường quản trị công cho hệ thống đổi mới sáng tạo

- Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc đề ra định hướng ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội trong dài hạn, bảo đảm cung cấp đầy đủ nguồn lực phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo, bảo đảm cho các tổ chức nhà nước vận hành tốt và các bộ phận trong hệ thống đổi mới sáng tạo gắn kết với nhau và tạo ra một chỉnh thể thống nhất. Hiện nay, công tác quản trị hệ thống đổi mới, sáng tạo của Việt Nam còn một số bất cập do thiếu các cam kết, sự phối hợp và thực hiện chính sách của Chính phủ một cách hiệu quả.

- Nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các cơ quan nghiên cứu của Nhà nước, các bên liên quan và công chúng. Chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo hiệu quả cần hướng tới những mục tiêu cao, nhưng phải thực tế và khả thi.

- Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp vào quá trình hoạch định chiến lược và chính sách.

- Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập được cơ sở pháp lý để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, một số thể chế mới tham gia quản lý và tài trợ cho R&D. Tuy nhiên, cần tiếp tục đẩy mạnh tiến trình xây dựng khung thể chế hiện đại để bảo đảm tiến độ.

- Cần gấp rút hoàn thiện nền tảng thông tin về chính sách, tiêu chí và thông lệ đánh giá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Hiện nay, hệ thống số liệu thống kê R&D và các thông tin có liên quan khác còn manh mún, lạc hậu và không tương thích với quốc tế.

- Việc đánh giá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cần được thực hiện một cách hiệu quả, kịp thời, minh bạch và khả thi. Kết quả đánh giá sẽ giúp đưa ra chính sách hiệu quả hơn, minh họa rõ nét lợi ích kinh tế và xã hội của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; và việc trao các phần thưởng danh giá cũng sẽ tạo thêm sự quan tâm của công chúng đối với lĩnh vực này.

Thứ hai, tăng cường nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo

- Nguồn nhân lực là vấn đề then chốt đối với đổi mới sáng tạo. Năng lực sáng tạo quốc gia phụ thuộc phần lớn vào chất lượng giáo dục và đào tạo các nhà khoa học, kỹ nghệ và các nhà chuyên môn khác và nó cũng phụ thuộc vào mức độ bao phủ của hệ thống giáo dục. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để nâng cao chất lượng giáo dục và kỹ năng. Kết quả đánh giá PISA năm 2012 của tổ chức OECD đối với học sinh trung học của Việt Nam khá cao. Tuy nhiên, Việt Nam còn cần phải làm nhiều hơn nữa để gia tăng số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nghề. Kinh phí cho đào tạo nghề hiện nay không theo kịp tốc độ gia tăng số lượng sinh viên kỹ thuật và nghiên cứu. Hệ thống giáo dục và đào tạo chính thức còn nặng về lý thuyết hoặc đã lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Ngoài hạn chế về kinh phí, việc quản trị giáo dục đại học còn thiếu thông tin về nhu cầu thị trường và các biện pháp khuyến khích đáp ứng các nhu cầu đó.

- Mở rộng cơ hội chuyên môn hóa theo ngành nghề ở bậc trung học phổ thông và nâng cao vị thế của đào tạo nghề là vấn đề cần thiết.

- Tạo thêm cơ hội để nâng cao tay nghề cho những người đã tham gia lực lượng lao động và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề ngắn hạn. Mở rộng cơ hội vừa học vừa làm và học tập suốt đời giúp xóa bỏ lỗ hổng về kỹ năng mềm.

- Cần khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn đa quốc gia, tăng cường đầu tư vào dạy nghề nhằm tài trợ cho những chương trình đào tạo theo nhu cầu và tham gia quá trình thiết kế, xây dựng giáo trình và chương trình. Quan hệ đối tác công tư (PPP) cũng sẽ khuyến khích doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào quá trình phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

- Cần ưu tiên thực hiện mục tiêu đầy tham vọng của Chính phủ là xóa bỏ hạn chế về kỹ năng của nhân lực trong khu vực công vào năm 2020 bởi những hạn chế về kỹ năng trong khu vực công ảnh hưởng lớn tới quá trình cung ứng dịch vụ công.

Thứ ba, đặt doanh nghiệp vào trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo

- Cần đặt các doanh nghiệp theo đuổi việc đổi mới sáng tạo và ứng dụng kết quả R&D của các trường đại học và các cơ quan nghiên cứu nhà nước vào trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển.

- Cần ưu tiên tăng cường năng lực sáng tạo nội bộ trong các loại hình doanh nghiệp - từ năng lực thiết kế, tới chế tạo, marketing, công nghệ thông tin và R&D. Hiện nay, khu vực doanh nghiệp hiện vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi R&D. Có rất ít doanh nghiệp thực hiện R&D, mức độ đổi mới sáng tạo còn thấp và sự kết nối với hoạt động nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu công lập còn yếu.

- Cần tiếp tục cải thiện, đổi mới khuôn khổ pháp lý và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích cạnh tranh và tạo điều kiện tiếp cận tài chính... Đổi mới, sáng tạo đòi hỏi phải có điều kiện về khuôn khổ pháp lý thuận lợi và ổn định. Việc thay đổi quy định quá thường xuyên sẽ tạo thêm nhiều thủ tục quan liêu.

- Cần đánh giá một cách toàn diện (bao gồm các công cụ hỗ trợ trực tiếp và ưu đãi thuế) và tiến hành đánh giá liên tục để cung cấp thông tin cho quá trình hợp lý hóa và định hướng lại với các hoạt động hỗ trợ. Việt Nam cũng có thể hưởng lợi từ việc tăng tài trợ cho các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện R&D và đổi mới sáng tạo, nếu chương trình đó được thiết kế và thực hiện theo đúng chuẩn thông lệ tốt.
- Cần thực hiện thêm các biện pháp bổ sung nhằm thu hút đầu tư nước ngoài có hàm lượng tri thức cao và tạo điều kiện phát huy tác dụng lan tỏa từ doanh nghiệp nước ngoài sang doanh nghiệp trong nước. Nên thực hiện một chương trình thí điểm đối tác công tư về R&D và đổi mới sáng tạo nhằm tập trung và tận dụng nguồn lực và tăng cường hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu nhà nước và doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước ngoài.

Thứ tư, nâng cao mức độ đóng góp của các trường đại học và cơ sở nghiên cứu nhà nước

- Cần có tầm nhìn chiến lược rõ ràng về phân công lao động giữa các trường đại học và cơ quan nghiên cứu nhà nước, bảo đảm cân đối chức năng giữa các cơ quan nghiên cứu nhà nước.

- Cải cách một cách căn bản cơ cấu quản trị các trường đại học và cơ quan nghiên cứu nhà nước. Đây là điều kiện cần để tăng tài trợ cho các cơ sở đó. Cần tiếp tục thực hiện quá trình công ty hóa các cơ quan nghiên cứu nhà nước theo hướng tăng quyền tự chủ cho họ, đồng thời bảo đảm rằng các cơ sở không thuộc diện công ty hóa có thể giảm về số lượng nhưng nâng cao được hiệu quả hoạt động. Các cơ sở đó phải bám sát các mục tiêu ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội theo các tiêu chí về chức năng và tài trợ rõ ràng, bao gồm các tiêu chí dựa trên kết quả hoạt động ở cấp độ thích hợp.

- Tăng cường vai trò điều phối mang tính chiến lược của Bộ Khoa học và Công nghệ, đồng thời, một số ít cơ quan như Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) sẽ đóng vai trò tích cực ở cấp thực hiện trong việc hợp lý hóa số lượng các cơ quan nghiên cứu nhà nước.

Phát biểu tại Hội thảo, bà V. Ka-oa (Victoria Kwakwa), Giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam, nói: “Tăng cường cạnh tranh trên thị trường toàn cầu đặt ra yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết đối với việc phải đầu tư sớm vào năng lực phát triển công nghệ hiện đại. Làm được như vậy sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu”. Còn ông A. Uy-cốp (Andrew Wyckoff), Giám đốc Khoa học, kỹ thuật và đổi mới sáng tạo của OECD, chia sẻ: “Thách thức của Việt Nam lúc này là đạt mức tăng trưởng cao và bền vững trong điều kiện môi trường quốc tế kém sôi động hơn. Để tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần cải thiện đáng kể năng lực đổi mới sáng tạo trong nước”. Theo các chuyên gia, để làm được điều này Việt Nam cần: Cải thiện khuôn khổ pháp lý cho đổi mới sáng tạo; Tăng cường quản trị công đối với hệ thống đổi mới sáng tạo; Tăng cường nguồn vốn con người về đổi mới sáng tạo; Tăng cường đổi mới sáng tạo trong khu vực doanh nghiệp; Nâng cao tỷ trọng đóng góp của các cơ quan nghiên cứu nhà nước; Thúc đẩy các mối liên kết đổi mới sáng tạo./.