TCCSĐT - Sau 10 năm tái lập tỉnh (2004 - 2014), diện mạo tỉnh Đắk Nông đã có nhiều thay đổi, khởi sắc, kinh tế đang trên đà phát triển; hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao, an ninh chính trị ổn định, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự “chuyển mình” đó có sự đóng góp đáng kể của công tác cải cách hành chính.

Ngay từ những ngày đầu mới tái lập tỉnh, Đắc Nông xác định cải cách hành chính là khâu đột phá, là chìa khóa thành công để cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh. Trong đó, trọng tâm là cải cách thể chế, mà cụ thể là việc ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các văn bản của Trung ương phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Trong ban hành thể chế, tỉnh chú trọng hoàn thiện các thể chế kinh tế đáp ứng yêu cầu vận động của kinh tế thị trường, các lĩnh vực được quan tâm trước tiên là: thu hút đầu tư, giải phóng mặt bằng, xây dựng khu công nghiệp, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển; phân cấp, phân quyền cho các đơn vị; tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, nhà đầu tư và đời sống của người dân.

Những kết quả bước đầu

Tỉnh đã chỉ đạo thực hiện quyết liệt các nội dung của Quyết định 30/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính giai đoạn 2007 - 2010 (Đề án 30); tiến hành thống kê, rà soát, công bố công khai 1.497 thủ tục hành chính trên toàn tỉnh (trong đó có 1.048 thủ tục hành chính cấp tỉnh và 267 thủ tục hành chính cấp huyện, 182 thủ tục hành chính cấp xã), tỷ lệ đơn giản hóa thủ tục hành chính đạt trên 54%; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của thủ tục hành chính trên địa bàn toàn tỉnh, nâng cao trách nhiệm và tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức. Những biện pháp tích cực cải cách hành chính đã tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, góp phần giảm chi phí cho xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân và doanh nghiệp vào chính quyền.

Thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22-6-2007 của Thủ tướng Chính phủ, việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh luôn được duy trì và đạt hiệu quả tốt. Đến nay, tỉnh đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa tại 100% cơ quan hành chính cấp tỉnh, huyện, xã và đẩy mạnh thực hiện cơ chế một cửa liên thông trên một số lĩnh vực: đầu tư; đăng ký kinh doanh, cấp giấp phép quảng cáo, đất đai, cấp giấp phép khai thác khoáng sản... Rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp khi giao dịch với các cơ quan nhà nước.

Về một cửa điện tử, đã có 7/8 huyện, thị thực hiện, giúp lãnh đạo các đơn vị theo dõi, nắm bắt chính xác tình hình giải quyết thủ tục hành chính cho công dân, tổ chức. Những đơn vị thực hiện tốt như huyện Cư Jút, Đăk Mil, Krông Nô. Đồng thời, tỉnh đã tổ chức thí điểm thực hiện cơ chế một cửa điện tử liên thông tại 2 đơn vị cấp xã. Thực hiện công khai, minh bạch 100% thủ tục hành chính, công khai mức phí, lệ phí cũng như thời gian giải quyết hồ sơ của công dân, tổ chức. Người dân, tổ chức hiểu rõ trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước đối với công việc hành chính cũng như nghĩa vụ của công dân với chính quyền, qua đó góp phần ngăn chặn tiêu cực trong hoạt động của một bộ phận cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ.

Để xác định được chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công cho cá nhân, tổ chức, năm 2010, Sở Nội vụ đã phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức điều tra, đánh giá mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp đối với bộ phận một cửa các cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh. Kết quả điều tra cho thấy mức độ hài lòng của người dân đối với bộ phận một cửa cấp huyện đạt 70%, cấp xã đạt gần 80%.

Việc đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức được xem là nhân tố quyết định thành công của công tác cải cách thủ tục hành chính. Trong đó, phân cấp quản lý cán bộ, công chức, viên chức luôn được lãnh đạo tỉnh chú trọng để tăng cường năng lực giải quyết công việc cho các đơn vị. Ngoài ra, việc phân cấp cũng nhằm giao quyền chủ động, chịu trách nhiệm cho thủ trưởng cơ quan, hướng đến giải quyết công việc kịp thời, hiệu quả. Công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn được thực hiện đúng nguyên tắc, đúng trình tự. Các kỳ thi tuyển công chức được tiến hành theo nguyên tắc cạnh tranh, chọn người có thực tài, có năng lực và trình độ chuyên môn theo yêu cầu của chức danh, vị trí công tác.

Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật

Nhằm từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tỉnh rất chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ. Tỉnh đã phối hợp với các trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh mở các khóa đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức. Ngoài ra, để có nguồn cán bộ trẻ kế cận trong thời gian tới, tỉnh đã quy hoạch đội ngũ cán bộ nguồn dài hạn gồm 308 cán bộ, công chức trẻ, có năng lực. Đây được xem là giải pháp mang tính đột phá, tạo nguồn cán bộ, công chức trẻ kế cận, có trình độ và năng lực đáp ưng yêu cầu nhiệm vụ cho các năm tiếp theo.

Bên cạnh đó, tỉnh luôn quan tâm thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán bộ công chức, viên chức; gắn việc củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn với việc thực hiện chế độ đãi ngộ hợp lý và công bằng. Sở Nội vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND, ngày 21-3-2012, quy định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2012-2015. Chính sách được ban hành đã khuyến khích cán bộ, công chức tích cực tham gia đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn và tạo nguồn cán bộ trẻ, có trình độ về công tác tại cơ sở.

Gắn liền với cải cách thủ tục hành chính là triển khai thực hiện tin học hóa quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể như quản lý văn bản hồ sơ công việc, các phần mềm chuyên ngành, vận hành cổng thông tin điện tử của tỉnh và xây dựng các trang thông tin điện tử của sở, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thị. Các mô hình, giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin mang lại tiện ích cao được tỉnh quan tâm. Hiện nay, các đơn vị đã xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý, điều hành; kịp thời cập nhật và cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền.

Thực hiện quản lý chất lượng công việc theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 đã giúp cho việc xử lý hồ sơ bảo đảm công khai, minh bạch, rõ ràng. Về phía cơ quan nhà nước, áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn TCVN 9001: 2008 giúp lãnh đạo đơn vị theo dõi, quản lý, giám sát và kiểm soát quy trình công việc, trách nhiệm của từng bộ phận phòng, ban và từng cán bộ công chức tham gia giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Ngoài ra, tỉnh còn mạnh dạn thí điểm ứng dụng hệ thống quản lý theo kết quả đầu ra (PSM) tại Trung tâm xúc tiến đầu tư. Đây được coi là công cụ quản lý hiệu quả, giúp lãnh đạo các đơn vị theo dõi, nắm bắt tiến độ công việc nhanh chóng, hiệu quả.

Có thể khẳng định, việc thực hiện cải cách hành chính trong thời gian qua đã góp phần quan trọng cho sự ổn định, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy chính quyền. Đội ngũ cán bộ, công chức có chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, phát huy tính năng động, sáng tạo trong công việc; khắc phục dần các biểu hiện thờ ơ, gây phiền hà, nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp; kiến thức, kỹ năng hành chính được nâng lên. Những nỗ lực của chính quyền tỉnh đang được người dân, doanh nghiệp đánh giá cao. Cụ thể là chỉ số PCI của Đăk Nông năm 2012 được cải thiện theo hướng tích cực, xếp hạng 48/63 tỉnh, thành, tăng 11 bậc so với năm 2011 và được xếp vào danh sách các tỉnh đạt khá.

Những hạn chế cần khắc phục và bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn

Những kết quả nêu trên là đáng trân trọng, nhưng đánh giá một cách khách quan thì việc đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước thời gian qua của Đăk Nông vẫn còn có hạn chế. Cụ thể là chất lượng, hiệu quả chưa cao, chưa tạo được bước chuyển biến có tính đột phá. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách trên một số lĩnh vực còn chậm và chưa đầy đủ; thủ tục hành chính còn quá nhiều, cải cách thủ tục hành chính chưa quyết liệt; giải quyết công việc hành chính ở một số lĩnh vực như đất đai, đầu tư dự án… còn có trường hợp kéo dài thời gian so quy định, gây phiền hà cho tổ chức và nhân dân... Cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả nhất là cấp xã còn khó khăn. Bộ máy tổ chức tuy có giảm đầu mối nhưng chưa tinh gọn; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, một bộ phận còn quan liêu, hách dịch, thiếu tôn trọng nhân dân khi đến quan hệ làm việc. Thực hiện cải cách tài chính công chưa đồng bộ và hiệu quả. Ứng dụng công nghệ thông tin và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn hạn chế. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một số nơi chưa tốt, thực hiện các quy định về chế độ công khai có nơi còn hình thức. Công tác thông tin, tuyên truyền và kiểm tra thực hiện cải cách hành chính chưa thường xuyên.

Từ thực tiễn của quá trình cải cách hành chính ở tỉnh thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, cải cách hành chính là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, do đó phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền và sự tham gia tuyên truyền, vận động và giám sát của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Phải xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, lâu dài gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm, sự thống nhất và quyết tâm cao trong cả hệ thống chính trị là yếu tố quyết định đến sự thành công của công cuộc cải cách hành chính.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan hành chính các cấp có phẩm chất đạo đức, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, có tính chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị là nhân tố quyết định đến sự thành công của công tác cải cách hành chính. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ quan tâm, người đứng đầu thể hiện rõ quyết tâm và sự quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính thì nơi đó sẽ có chuyển biến rõ rệt và ngược lại. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác cải cách hành chính nhiệt tình, tâm huyết và năng lực để tham mưu, đề xuất giúp người đứng đầu chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính đạt kết quả.

Thứ ba, cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ, trong đó cải cách thủ tục hành chính là khâu có ý nghĩa to lớn trong việc tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức và cá nhân. Cần xem xét, chuyển một số dịch vụ hành chính mà Nhà nước không cần nắm giữ cho các tổ chức và xã hội đảm nhiệm; mạnh dạn loại bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong giải quyết công việc hành chính. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, làm cho các nội dung cải cách hành chính đến gần với người dân, phục vụ đời sống và sinh hoạt của nhân dân được tốt hơn.

Thứ tư, cải cách hành chính đòi hỏi phải có nguồn lực để đầu tư, trước hết là đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhất là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, công khai, minh bạch các quy trình, thủ tục hành chính và chính sách có liên quan người dân, tổ chức trên các lĩnh vực quản lý.

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cải cách hành chính

Để tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Nông xác định rõ những nhiệm vụ và giải pháp sau:

Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Xây dựng kế hoạch thực hiện các văn bản của Chính phủ về tổ chức và hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Tổ chức kiểm tra việc thi hành và hiệu quả thi hành các văn bản, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, đảm bảo nguyên tắc, trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính; rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa thủ tục hành chính theo quy định mới của pháp luật trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính trên các lĩnh vực như: đất đai, đầu tư, đăng ký kinh doanh, xây dựng, thuế… Kiểm soát việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo đúng quy định.

Ba là, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; rà soát các quy định về tổ chức, bộ máy để xóa bỏ những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước; tiếp tục thực hiện phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực.

Bốn là, đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức. Xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, nghiệp vụ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý. Thực hiện nghiêm túc chế độ tuyển dụng, thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh theo quy định. Xây dựng quy chế và thực hiện công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả đầu ra. Tiếp tục tổ chức đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ nguồn dài hạn của tỉnh và quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn cán bộ trẻ.

Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan hành chính, bao gồm ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nội bộ cơ quan hành chính, trong giao dịch với các cơ quan hành chính khác và trong giao dịch với tổ chức, công dân, đặc biệt là trong hoạt động cung cấp dịch vụ hành chính công. Công bố công khai danh mục các dịch vụ hành chính công trên môi trường mạng của các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh, huyện./.