Góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thu hút sự quan tâm của nhiều người
22:50, ngày 29-01-2013
TCCSĐT - Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW, ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị về việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đang diễn ra sôi nổi. Đây thực sự là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn nhằm phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, của các cấp, các ngành, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc sửa đổi Hiến pháp, thi hành Hiến pháp và góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài
Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc có ý nghĩa nhiều mặt liên quan đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 5 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 nêu rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
Nhiều năm nghiên cứu về vấn đề dân tộc, Nhà nghiên cứu Dân tộc học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Đính cho rằng: Nên chăng có một ý là Phát huy vai trò của dân tộc chủ thể là người Việt. Vì, với một quốc gia đa tộc thì sự phát triển của quốc gia đó là một quy luật chung, đều lấy sự phát triển tộc người đa số là hướng phát triển. Đó là quy luật tất yếu của các quốc gia đa tộc người. Đương nhiên, bên cạnh phát huy vai trò năng động, sáng tạo của tộc người chủ thể thì luôn luôn phải phát huy được tộc người thiểu số và các vùng tộc người khác.
Góp ý vào khoản 2 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Đính cho rằng: phải bỏ chữ “tôn trọng” và thêm chữ “tương trợ”. Do đó, khoản 2 viết là: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Bởi vì, phải bình đẳng mới có đoàn kết và muốn đoàn kết thì phải tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Đồng thời, tại khoản 2 phải bổ sung ý, thể hiện đây là nguyên tắc bất di, bất dịch hoặc là nguyên tắc có chiến lược lâu dài.
Ông Lù Văn Que, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho rằng, mở đầu Điều 5 của Hiến pháp phải xác định: “Việt Nam là nước đa dân tộc, vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lớn và lâu dài”. Bởi vì, có xác định như vậy mới tạo được sự thống nhất từ Đảng đến toàn dân về nhận thức và hành động đúng tầm của vấn đề này. Hòa giải và hòa hợp, đoàn kết được các dân tộc, các tôn giáo là chìa khóa để ổn định và phát triển đất nước.
Ông Lù Văn Que cũng cho rằng: Tại khoản 4 của Điều 5 phải khẳng định, Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc. Như vậy, khoản 4 phải ghi là: Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc theo nguyên tắc các dân tộc “bình đẳng, tôn trọng, thương yêu, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển, tiến bộ”; tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
“Phải đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện và tạo điều kiện để các dân tộc cùng phát triển. Các dân tộc thiểu số phải phát huy nội lực để phát triển, khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại. Từng bước thu hẹp được khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo. Xác định các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, như vậy, vừa đầy đủ, vừa hợp với thực tiễn; nếu ai không thực hiện tốt hoặc bỏ sót một trong các nguyên tắc trên là vi phạm chính sách dân tộc, sẽ gây hậu quả khó lường”, ông Que nhấn mạnh.
Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc có ý nghĩa nhiều mặt liên quan đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và sự phát triển bền vững của quốc gia. Điều 5 liên quan trực tiếp và điều tiết mối quan hệ chính trị - xã hội của các thành phần tộc người, liên quan đến con người, có tính nhạy cảm; liên quan đến dân tộc đa số và dân tộc thiểu số. Mọi quy định trong Điều 5 sẽ là định hướng để hình thành các văn bản luật liên quan đến mối quan hệ dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới.
Phát triển con người bền vững
Tỉnh ủy Bắc Ninh đã giao Hội đồng nhân dân là cơ quan chủ trì chuẩn bị toàn bộ nội dung kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện lấy ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân, bảo đảm đúng tiến độ, tổng hợp ý kiến đạt kết quả cao.
Tại Thái Nguyên, Ban chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của tỉnh đã tổ chức Hội nghị trực tuyến với 10 điểm cầu tại Trung tâm tỉnh và 9 huyện, thành phố, thị xã. Đồng thời, huy động các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh tích cực triển khai, lựa chọn các hình thức lấy ý kiến công khai, rộng rãi, bảo đảm phát huy quyền dân chủ và trí tuệ của nhân dân.
Ông Nguyễn Đức Minh, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Nguyên cho biết: “Theo kế hoạch, bắt đầu từ trung tuần tháng 2 sẽ tổ chức các hội nghị để lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân, nhân sĩ, trí thức, luật sư, luật gia, các tổ chức tôn giáo. Hình thức đầu tiên, lấy qua kênh tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo ở cấp tỉnh, cấp huyện, ở các tổ chức thành viên. Hình thức thứ 2, tiếp nhận ý kiến của nhân dân tham gia, tổ chức một phòng đón tiếp tất cả ý kiến của các cử tri gửi đến”.
Mong muốn được đóng góp tâm huyết của mình, Giáo sư, Viện sĩ, Nhà giáo Nhân dân Phạm Minh Hạc - nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo đặc biệt quan tâm tới điều 65, 66 trong chương 3 về “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”. Ông nhất trí với việc Dự thảo giữ 7 nội dung của Hiến pháp năm 1992 về giáo dục. Đồng thời bày tỏ sự đồng tình cao với việc bổ sung một nội dung trong khoản 1 về hội nhập quốc tế; bổ sung khoản 3 của Điều 66 về phát triển tài năng và người khuyết tật và đặc biệt khó khăn…
Nhà giáo Nhân dân Phạm Minh Hạc góp ý, nên thay đổi một số câu từ trong Điều 66 để bảo đảm tính khoa học và phù hợp với xu thế thời đại: “Thế kỷ XXI người ta nói nhiều đến phát triển con người một cách bền vững. Cho nên, tôi đề nghị thay câu “hình thành và bồi dưỡng nhân cách và phẩm chất năng lực của công dân” bằng câu “mục tiêu của giáo dục là phát triển bền vững con người”. Vì phẩm chất và năng lực cộng lại với nhau thì bằng nhân cách, cho nên, không nên viết như cũ, nó không đúng với lý luận khoa học cũng như là cách thường hiểu của nhân dân mà nên thay bằng “hình thành và phát triển con người bền vững có phẩm chất và năng lực cho thế hệ trẻ”.
Phát huy vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Điều 9 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, đồng thời bổ sung vai trò phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam. Đây là sự khẳng định chủ trương của Đảng theo tinh thần Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 về phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vai trò này của Mặt trận được Nhà nước quy định thành thể chế chính trị trong chương đầu tiên của bản Hiến pháp. Tuy nhiên, nội dung này cũng nhận được nhiều góp ý.
Tại khoản 2, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: Mặt trận phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức.
Giáo sư Lưu Văn Đạt, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ - Pháp Luật, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng: Thời gian qua, MTTQ Việt Nam đã có nhiều cố gắng thể hiện vai trò trong việc giám sát, phản biện nhiều vụ việc được dư luận quan tâm. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có quy chế để Mặt trận thực hiện vai trò giám sát và phản biện. Vì thế, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi cần quy định rõ: MTTQ Việt Nam đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Giáo sư Lưu Văn Đạt khẳng định: “Từ năm 1992 cho đến bây giờ thay đổi nhiều nhưng tư duy vẫn cũ. Do đó, theo tôi, cơ bản viết lại điều 9. Phải khẳng định MTTQ Việt Nam đại diện cho quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy là có trách nhiệm bảo vệ lợi ích và quyền lợi hợp pháp của công dân. Những vấn đề oan sai trong xã hội phải giám sát và có ý kiến để giải quyết”.
Giám sát và phản biện xã hội có mối quan hệ chặt chẽ trong quá trình hoạt động của MTTQ Việt Nam. Ông Đỗ Duy Thường, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã khẳng định như vậy. Ông Thường nói: Giám sát có hiệu quả là cơ sở cho các hoạt động phản biện và ngược lại. Nhân dân giám sát và phản biện là thể hiện việc phát huy dân chủ trực tiếp. Mặt trận giám sát và phản biện là thể hiện việc phát huy dân chủ đại diện. Kết hợp chặt chẽ hai hình thức này sẽ tạo nên sức mạnh của nhân dân và của Mặt trận trong xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng cơ quan nhà nước, chính quyền ngày càng trong sạch. Tuy nhiên, ông Đỗ Duy Thường cũng cho rằng: Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 9 của Hiến pháp viết về phạm vi đối tượng giám sát và phản biện gộp làm một là chưa chính xác, rõ ràng. Vì, phạm vi đối tượng giám sát là hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức, trong khi phạm vi đối tượng của phản biện xã hội là những dự thảo chủ trương của Đảng, dự án và các chính sách, pháp luật của Nhà nước trước khi ban hành. Tôi cho rằng phải viết cho đầy đủ, rõ ràng là: “Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức”. Tiếp đến là “Phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Viết như vậy thì phạm vi, đối tượng của phản biện rõ hơn và giám sát hoạt động đúng Hiến pháp. Như vậy vừa đúng với Hiến pháp năm 1992 hiện hành về giám sát và chủ trương mới của Đảng về phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam; đồng thời là cơ sở đối với việc cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật sau này.
Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam có hiệu quả sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng sự đồng thuận xã hội, động viên nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức, đưa các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống. Thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội cũng là việc thực hiện tốt mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Cần làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học - công nghệ
Ngày 29-1, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Kinh tế - Ngân sách - HĐND Thành phố đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tại Hội nghị, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhất là liên quan đến lĩnh vực khoa học - công nghệ. Có ý kiến cho rằng, trong Hiến pháp phải ghi rõ việc nghiêm cấm những hoạt động khoa học - công nghệ với động cơ hoặc có thể gây nguy cơ chống lại Tổ quốc, chống lại xã hội loài người, gây phương hại đến an ninh xã hội.
Điều 67, mục 1 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có ghi “Khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt, là động lực phát triển”, một số ý kiến đề nghị nên bổ sung “Khoa học công nghệ giữ vai trò nền tảng”. Dự thảo cũng chưa đề cập rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong sự phát triển lĩnh vực này. Bà Nguyễn Thị Dung, Viện phó Viện Nghiên cứu giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh nêu ý kiến: Hiện giờ chúng ta đang xem giáo dục, khoa học - công nghệ (KHCN) là chính sách hàng đầu của Việt Nam và điều này cho thấy, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển đất nước, đặc biệt lấy vai trò của khoa học - công nghệ làm động lực then chốt để phát triển. Tôi nghĩ rằng, để phát triển KHCN thì không chỉ khuyến khích mà phải tạo điều kiện giúp cho những tổ chức, cá nhân có thể tham gia hoạt động KHCN. Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp, ở Việt Nam ngoài các ngành như y tế, luật… thì còn nhiều lĩnh vực khác chưa có vai trò của những hiệp hội này. Tôi thấy đây là một trong những điều mà khi sửa đổi Hiến pháp và sau đó là sửa đổi luật thì Nhà nước chúng ta cần chú ý.
Góp ý Điều 27, mục 1 Dự thảo Hiến pháp về “công dân nam nữ bình đẳng, có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và gia đình”, có ý kiến cho rằng: hiện nay, vấn đề tuổi nghỉ hưu vẫn có sự phân biệt giữa nam và nữ, trong khi Hiến pháp ghi rõ “nghiêm cấm mọi phân biệt đối xử về giới”. Ngoài ra, Điều 58 quy định việc “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”, nhiều đại biểu đề xuất cần bỏ câu “và các dự án phát triển kinh tế - xã hội” vì dễ bị nhiều người lợi dụng vào mục đích cá nhân.
Trong Điều 4 Dự thảo Hiến pháp có ghi “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân” nhưng cơ chế giám sát chưa có, cần phải bổ sung thêm.
Nhiều ý kiến cũng đề nghị nên giải trình lý do và sự cần thiết của các nội dung mới được đưa vào cũng như các nội dung bỏ đi của Hiến pháp năm 1992, nhằm tạo thuận lợi hơn cho việc góp ý Dự thảo để tạo sự thống nhất chung trong thực hiện. Ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh, nói: Trong Dự thảo Hiến pháp, tôi thấy đã đưa rõ hơn về quyền con người. Đa số các vấn đề quy định về “công dân”, “quyền công dân” trước đây đã chuyển sang “mọi người” và “quyền con người”. Tôi nghĩ đó là hướng cũng rất tốt. Thế nhưng, cũng phải thống nhất ngay từ đầu “quyền con người”, “quyền công dân” là gì, sự khác nhau của nó như thế nào và tại sao phải đưa vào Hiến pháp những cái phân biệt như thế. Phải giải thích rất rõ để mọi người cùng hiểu và cùng tham gia vào sự điều chỉnh Hiến pháp này, cũng như sau này cùng thực hiện, nếu cách hiểu khác nhau thì thực hiện sẽ khác nhau…/.
Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc có ý nghĩa nhiều mặt liên quan đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 5 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 nêu rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
Nhiều năm nghiên cứu về vấn đề dân tộc, Nhà nghiên cứu Dân tộc học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Đính cho rằng: Nên chăng có một ý là Phát huy vai trò của dân tộc chủ thể là người Việt. Vì, với một quốc gia đa tộc thì sự phát triển của quốc gia đó là một quy luật chung, đều lấy sự phát triển tộc người đa số là hướng phát triển. Đó là quy luật tất yếu của các quốc gia đa tộc người. Đương nhiên, bên cạnh phát huy vai trò năng động, sáng tạo của tộc người chủ thể thì luôn luôn phải phát huy được tộc người thiểu số và các vùng tộc người khác.
Góp ý vào khoản 2 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Đính cho rằng: phải bỏ chữ “tôn trọng” và thêm chữ “tương trợ”. Do đó, khoản 2 viết là: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Bởi vì, phải bình đẳng mới có đoàn kết và muốn đoàn kết thì phải tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Đồng thời, tại khoản 2 phải bổ sung ý, thể hiện đây là nguyên tắc bất di, bất dịch hoặc là nguyên tắc có chiến lược lâu dài.
Ông Lù Văn Que, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho rằng, mở đầu Điều 5 của Hiến pháp phải xác định: “Việt Nam là nước đa dân tộc, vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lớn và lâu dài”. Bởi vì, có xác định như vậy mới tạo được sự thống nhất từ Đảng đến toàn dân về nhận thức và hành động đúng tầm của vấn đề này. Hòa giải và hòa hợp, đoàn kết được các dân tộc, các tôn giáo là chìa khóa để ổn định và phát triển đất nước.
Ông Lù Văn Que cũng cho rằng: Tại khoản 4 của Điều 5 phải khẳng định, Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc. Như vậy, khoản 4 phải ghi là: Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc theo nguyên tắc các dân tộc “bình đẳng, tôn trọng, thương yêu, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển, tiến bộ”; tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
“Phải đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện và tạo điều kiện để các dân tộc cùng phát triển. Các dân tộc thiểu số phải phát huy nội lực để phát triển, khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại. Từng bước thu hẹp được khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo. Xác định các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, như vậy, vừa đầy đủ, vừa hợp với thực tiễn; nếu ai không thực hiện tốt hoặc bỏ sót một trong các nguyên tắc trên là vi phạm chính sách dân tộc, sẽ gây hậu quả khó lường”, ông Que nhấn mạnh.
Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc có ý nghĩa nhiều mặt liên quan đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và sự phát triển bền vững của quốc gia. Điều 5 liên quan trực tiếp và điều tiết mối quan hệ chính trị - xã hội của các thành phần tộc người, liên quan đến con người, có tính nhạy cảm; liên quan đến dân tộc đa số và dân tộc thiểu số. Mọi quy định trong Điều 5 sẽ là định hướng để hình thành các văn bản luật liên quan đến mối quan hệ dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới.
Phát triển con người bền vững
Tỉnh ủy Bắc Ninh đã giao Hội đồng nhân dân là cơ quan chủ trì chuẩn bị toàn bộ nội dung kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện lấy ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân, bảo đảm đúng tiến độ, tổng hợp ý kiến đạt kết quả cao.
Tại Thái Nguyên, Ban chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của tỉnh đã tổ chức Hội nghị trực tuyến với 10 điểm cầu tại Trung tâm tỉnh và 9 huyện, thành phố, thị xã. Đồng thời, huy động các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh tích cực triển khai, lựa chọn các hình thức lấy ý kiến công khai, rộng rãi, bảo đảm phát huy quyền dân chủ và trí tuệ của nhân dân.
Ông Nguyễn Đức Minh, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Nguyên cho biết: “Theo kế hoạch, bắt đầu từ trung tuần tháng 2 sẽ tổ chức các hội nghị để lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân, nhân sĩ, trí thức, luật sư, luật gia, các tổ chức tôn giáo. Hình thức đầu tiên, lấy qua kênh tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo ở cấp tỉnh, cấp huyện, ở các tổ chức thành viên. Hình thức thứ 2, tiếp nhận ý kiến của nhân dân tham gia, tổ chức một phòng đón tiếp tất cả ý kiến của các cử tri gửi đến”.
Mong muốn được đóng góp tâm huyết của mình, Giáo sư, Viện sĩ, Nhà giáo Nhân dân Phạm Minh Hạc - nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo đặc biệt quan tâm tới điều 65, 66 trong chương 3 về “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”. Ông nhất trí với việc Dự thảo giữ 7 nội dung của Hiến pháp năm 1992 về giáo dục. Đồng thời bày tỏ sự đồng tình cao với việc bổ sung một nội dung trong khoản 1 về hội nhập quốc tế; bổ sung khoản 3 của Điều 66 về phát triển tài năng và người khuyết tật và đặc biệt khó khăn…
Nhà giáo Nhân dân Phạm Minh Hạc góp ý, nên thay đổi một số câu từ trong Điều 66 để bảo đảm tính khoa học và phù hợp với xu thế thời đại: “Thế kỷ XXI người ta nói nhiều đến phát triển con người một cách bền vững. Cho nên, tôi đề nghị thay câu “hình thành và bồi dưỡng nhân cách và phẩm chất năng lực của công dân” bằng câu “mục tiêu của giáo dục là phát triển bền vững con người”. Vì phẩm chất và năng lực cộng lại với nhau thì bằng nhân cách, cho nên, không nên viết như cũ, nó không đúng với lý luận khoa học cũng như là cách thường hiểu của nhân dân mà nên thay bằng “hình thành và phát triển con người bền vững có phẩm chất và năng lực cho thế hệ trẻ”.
Phát huy vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Điều 9 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, đồng thời bổ sung vai trò phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam. Đây là sự khẳng định chủ trương của Đảng theo tinh thần Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 về phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vai trò này của Mặt trận được Nhà nước quy định thành thể chế chính trị trong chương đầu tiên của bản Hiến pháp. Tuy nhiên, nội dung này cũng nhận được nhiều góp ý.
Tại khoản 2, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: Mặt trận phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức.
Giáo sư Lưu Văn Đạt, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ - Pháp Luật, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng: Thời gian qua, MTTQ Việt Nam đã có nhiều cố gắng thể hiện vai trò trong việc giám sát, phản biện nhiều vụ việc được dư luận quan tâm. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có quy chế để Mặt trận thực hiện vai trò giám sát và phản biện. Vì thế, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi cần quy định rõ: MTTQ Việt Nam đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Giáo sư Lưu Văn Đạt khẳng định: “Từ năm 1992 cho đến bây giờ thay đổi nhiều nhưng tư duy vẫn cũ. Do đó, theo tôi, cơ bản viết lại điều 9. Phải khẳng định MTTQ Việt Nam đại diện cho quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy là có trách nhiệm bảo vệ lợi ích và quyền lợi hợp pháp của công dân. Những vấn đề oan sai trong xã hội phải giám sát và có ý kiến để giải quyết”.
Giám sát và phản biện xã hội có mối quan hệ chặt chẽ trong quá trình hoạt động của MTTQ Việt Nam. Ông Đỗ Duy Thường, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã khẳng định như vậy. Ông Thường nói: Giám sát có hiệu quả là cơ sở cho các hoạt động phản biện và ngược lại. Nhân dân giám sát và phản biện là thể hiện việc phát huy dân chủ trực tiếp. Mặt trận giám sát và phản biện là thể hiện việc phát huy dân chủ đại diện. Kết hợp chặt chẽ hai hình thức này sẽ tạo nên sức mạnh của nhân dân và của Mặt trận trong xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng cơ quan nhà nước, chính quyền ngày càng trong sạch. Tuy nhiên, ông Đỗ Duy Thường cũng cho rằng: Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 9 của Hiến pháp viết về phạm vi đối tượng giám sát và phản biện gộp làm một là chưa chính xác, rõ ràng. Vì, phạm vi đối tượng giám sát là hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức, trong khi phạm vi đối tượng của phản biện xã hội là những dự thảo chủ trương của Đảng, dự án và các chính sách, pháp luật của Nhà nước trước khi ban hành. Tôi cho rằng phải viết cho đầy đủ, rõ ràng là: “Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức”. Tiếp đến là “Phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Viết như vậy thì phạm vi, đối tượng của phản biện rõ hơn và giám sát hoạt động đúng Hiến pháp. Như vậy vừa đúng với Hiến pháp năm 1992 hiện hành về giám sát và chủ trương mới của Đảng về phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam; đồng thời là cơ sở đối với việc cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật sau này.
Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam có hiệu quả sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng sự đồng thuận xã hội, động viên nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức, đưa các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống. Thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội cũng là việc thực hiện tốt mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Cần làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học - công nghệ
Ngày 29-1, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Kinh tế - Ngân sách - HĐND Thành phố đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tại Hội nghị, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhất là liên quan đến lĩnh vực khoa học - công nghệ. Có ý kiến cho rằng, trong Hiến pháp phải ghi rõ việc nghiêm cấm những hoạt động khoa học - công nghệ với động cơ hoặc có thể gây nguy cơ chống lại Tổ quốc, chống lại xã hội loài người, gây phương hại đến an ninh xã hội.
Điều 67, mục 1 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có ghi “Khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt, là động lực phát triển”, một số ý kiến đề nghị nên bổ sung “Khoa học công nghệ giữ vai trò nền tảng”. Dự thảo cũng chưa đề cập rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong sự phát triển lĩnh vực này. Bà Nguyễn Thị Dung, Viện phó Viện Nghiên cứu giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh nêu ý kiến: Hiện giờ chúng ta đang xem giáo dục, khoa học - công nghệ (KHCN) là chính sách hàng đầu của Việt Nam và điều này cho thấy, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển đất nước, đặc biệt lấy vai trò của khoa học - công nghệ làm động lực then chốt để phát triển. Tôi nghĩ rằng, để phát triển KHCN thì không chỉ khuyến khích mà phải tạo điều kiện giúp cho những tổ chức, cá nhân có thể tham gia hoạt động KHCN. Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp, ở Việt Nam ngoài các ngành như y tế, luật… thì còn nhiều lĩnh vực khác chưa có vai trò của những hiệp hội này. Tôi thấy đây là một trong những điều mà khi sửa đổi Hiến pháp và sau đó là sửa đổi luật thì Nhà nước chúng ta cần chú ý.
Góp ý Điều 27, mục 1 Dự thảo Hiến pháp về “công dân nam nữ bình đẳng, có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và gia đình”, có ý kiến cho rằng: hiện nay, vấn đề tuổi nghỉ hưu vẫn có sự phân biệt giữa nam và nữ, trong khi Hiến pháp ghi rõ “nghiêm cấm mọi phân biệt đối xử về giới”. Ngoài ra, Điều 58 quy định việc “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”, nhiều đại biểu đề xuất cần bỏ câu “và các dự án phát triển kinh tế - xã hội” vì dễ bị nhiều người lợi dụng vào mục đích cá nhân.
Trong Điều 4 Dự thảo Hiến pháp có ghi “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân” nhưng cơ chế giám sát chưa có, cần phải bổ sung thêm.
Nhiều ý kiến cũng đề nghị nên giải trình lý do và sự cần thiết của các nội dung mới được đưa vào cũng như các nội dung bỏ đi của Hiến pháp năm 1992, nhằm tạo thuận lợi hơn cho việc góp ý Dự thảo để tạo sự thống nhất chung trong thực hiện. Ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh, nói: Trong Dự thảo Hiến pháp, tôi thấy đã đưa rõ hơn về quyền con người. Đa số các vấn đề quy định về “công dân”, “quyền công dân” trước đây đã chuyển sang “mọi người” và “quyền con người”. Tôi nghĩ đó là hướng cũng rất tốt. Thế nhưng, cũng phải thống nhất ngay từ đầu “quyền con người”, “quyền công dân” là gì, sự khác nhau của nó như thế nào và tại sao phải đưa vào Hiến pháp những cái phân biệt như thế. Phải giải thích rất rõ để mọi người cùng hiểu và cùng tham gia vào sự điều chỉnh Hiến pháp này, cũng như sau này cùng thực hiện, nếu cách hiểu khác nhau thì thực hiện sẽ khác nhau…/.
Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 1-2013  (29/01/2013)
Tiếp tục lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992  (29/01/2013)
Trao Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng tặng đồng chí Trần Quốc Hương  (29/01/2013)
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tổng kết công tác năm 2012, triển khai nhiệm vụ năm 2013  (29/01/2013)
Tiếp tục đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội  (29/01/2013)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên