Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội
TCCS - Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, Quốc hội và Chính phủ có nghị quyết, nghị định về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, tạo cơ sở pháp lý và môi trường thuận lợi để chính quyền Thủ đô chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, nâng cao đời sống của nhân dân. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, việc triển khai thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị ở Hà Nội kỳ vọng sẽ đạt được các mục tiêu đề ra.
Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị ở thành phố Hà Nội theo Hiến pháp năm 2013 và nghị quyết của Quốc hội
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra chủ trương “thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”(1). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 khẳng định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt” (khoản 1, Điều 2); “Chính quyền địa phương ở quận là cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương” (khoản 14, Điều 2); “Chính quyền địa phương ở phường là cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương” (khoản 17, Điều 2). Những sửa đổi, bổ sung trên tạo cơ sở để Quốc hội ban hành Nghị quyết quyết định thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị ở Hà Nội, Đà Nẵng và tổ chức chính quyền đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của từng đô thị trong điều kiện mới.
Thể chế hóa Nghị quyết số 97/2019/QH14, 27-11-2019, của Quốc hội, “Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội”; Nghị quyết số 119/2020/QH14, ngày 19-6-2020, của Quốc hội, “Về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng”; Nghị quyết số 131/2020/QH14, ngày 16-11-2020, của Quốc hội, “Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Chính phủ ban hành các nghị định để triển khai thực hiện(2). Theo đó, về lý thuyết, mô hình chính quyền đô thị phải: Đề cao thẩm quyền, trách nhiệm của chủ tịch ủy ban nhân dân với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; đề cao trách nhiệm cá nhân trên cơ sở phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và tập thể trong tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị; bảo đảm tính chủ động, độc lập của chính quyền đô thị trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao; bảo đảm sự thông suốt, nhanh và hiệu quả, giảm bớt tổ chức trung gian, hướng tới chính quyền đô thị một cấp thống nhất.
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành thì nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội có một số thay đổi so với Luật Chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) như sau:
Theo Nghị quyết số 97/2019/QH14, tổ chức mô hình chính quyền đô thị có sự thay đổi là, chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội là ủy ban nhân dân phường. Nghị định số 32/2021/NĐ-CP, ngày 29-2-2021, “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội” quy định thẩm quyền và phân cấp, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và chủ tịch ủy ban nhân dân quận, thị xã thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức làm việc tại ủy ban nhân dân phường. Chủ tịch ủy ban nhân dân quận, thị xã quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác đối với chủ tịch ủy ban nhân dân phường (chủ tịch phường), phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường (phó chủ tịch phường); khen thưởng, kỷ luật công chức làm việc tại ủy ban nhân dân phường; giao quyền cho chủ tịch ủy ban nhân dân phường theo quy định của pháp luật. Sở Nội vụ thực hiện hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức làm việc tại ủy ban nhân dân phường. Cơ cấu tổ chức của ủy ban nhân dân phường gồm: chủ tịch phường; phó chủ tịch phường; trưởng công an phường; chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự phường và các công chức khác: văn phòng - thống kê; địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường; tài chính - kế toán; tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội. Biên chế công chức bình quân làm việc tại ủy ban nhân dân phường là 15 người. Số bình quân này được tính trên tổng số phường của một quận, thị xã. Căn cứ quy định trên, Ủy ban nhân dân thành phố trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phân bổ số lượng biên chế công chức của ủy ban nhân dân phường thuộc từng quận, thị xã…
Những vấn đề đặt ra về thí điểm tổ chức xây dựng chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội
Với quy định như trên, thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Hà Nội là ở phường không tổ chức hội đồng nhân dân, còn cấp huyện và cấp tỉnh đều có hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân; so với mô hình chính quyền địa phương ở phường trước khi thí điểm bao gồm cả hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, xác định là cấp chính quyền địa phương. Tổ chức chính quyền đô thị ở cấp phường chỉ có ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà nước, hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Trước đây, chúng ta cũng đã thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân cấp quận, huyện, phường ở một số địa phương. Nhưng khi đó, thí điểm vẫn thực hiện theo chế độ tập thể lãnh đạo, còn hiện nay, ủy ban nhân dân phường hoạt động theo chế độ thủ trưởng và chỉ xây dựng và tổ chức chính quyền đô thị ở đô thị, tức là cấp quận, phường (không có huyện). Như vậy, thành phố Hà Nội chỉ không tổ chức hội đồng nhân dân ở cấp phường, còn Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là ở cả cấp quận và phường đều không tổ chức hội đồng nhân dân (Thành phố Hồ Chí Minh không thí điểm mà thực hiện luôn). Sau này khi tổng kết thí điểm, cần có một mô hình chung về tổ chức chính quyền đô thị phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động của đô thị, không nên để tình trạng mỗi đô thị lại tổ chức một mô hình chính quyền khác nhau.
Về ưu điểm của mô hình và việc tổ chức triển khai thí điểm tổ chức chính quyền đô thị được thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, thí điểm tổ chức chính quyền đô thị đã chỉ ra tất yếu khách quan cần phải thay đổi để thấy rõ có sự khác nhau giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, dưới sự lãnh đạo của Đảng và bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mô hình mới phù hợp với đặc điểm của chính quyền đô thị về tính thống nhất liên thông của hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đòi hỏi sự quản lý điều hành liên tục, thống nhất, nên mô hình đô thị phải được tổ chức sao cho không tạo ra quá nhiều sự cắt khúc trong tổ chức các cấp quản lý hành chính trong phạm vi lãnh thổ - hành chính.
Hai là, đẩy mạnh phân quyền, phân cấp, ủy quyền, phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bảo đảm tính minh bạch trong quản lý chính quyền của thành phố. Huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển của thành phố, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Ba là, đổi mới việc thực hiện quyền giám sát khi không tổ chức hội đồng nhân dân phường. Việc thực hiện quyền làm chủ và giám sát của nhân dân khi không tổ chức hội đồng nhân dân phường được thực hiện thông qua hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân thành phố, hội đồng nhân dân quận; giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hoặc cơ quan nhà nước khác, như thông qua kiểm tra, giám sát của Đảng, xét xử của tòa án đối với vụ án hành chính; giám sát trực tiếp của nhân dân thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, thông qua báo chí, các kênh thông tin, truyền thông, mạng xã hội… Vì vậy, tiếng nói của người dân ở cấp cơ sở của các đô thị vẫn được hội đồng nhân dân các cấp cũng như cơ quan nhà nước lắng nghe, xem xét, giải quyết.
Bốn là, để triển khai nghị quyết của Quốc hội, thành phố Hà Nội ban hành kịp thời một số văn bản hướng dẫn, như Kế hoạch số 100/KH-UBND, ngày 12-4-2021, của Ủy ban nhân dân thành phố để triển khai thực hiện Nghị định số 32/2021/NĐ-CP, ngày 29-3-2021, của Chính phủ, “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14, ngày 27-11-2019, của Quốc hội về thí điểm tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội”; Quyết định số 2696/QĐ-UBND, ngày 21-6-2021, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, ban hành “Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân phường khi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị”, hướng dẫn hoạt động của các chủ thể tác động bởi thí điểm đã tạo ra những cơ sở pháp lý để thực hiện. Quyết định số 2696/QĐ-UBND, quy định nguyên tắc, chế độ, trách nhiệm, lề lối làm việc, phương thức giải quyết công việc và quan hệ công tác của ủy ban nhân dân phường với các cơ quan, tổ chức liên quan. Chủ tịch ủy ban nhân dân phường, phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường, trưởng công an phường, chỉ huy, trưởng ban chỉ huy quân sự phường, các công chức khác làm việc tại ủy ban nhân dân phường và người hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ trưởng tổ dân phố, các tổ chức và cá nhân có quan hệ làm việc với ủy ban nhân dân phường chịu sự điều chỉnh của Quy chế.
Năm là, Nghị định số 32/2021/NĐ-CP cho phép chủ tịch ủy ban nhân dân phường được ủy quyền cho công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện ký chứng thực và đóng dấu của ủy ban nhân dân phường đối với việc chứng thực bản sao từ bản chính. Quy định này góp phần giảm tải công việc cho lãnh đạo ủy ban nhân dân phường, tạo thuận lợi cho công dân, tổ chức khi làm thủ tục chứng thực - thủ tục chiếm phần lớn thủ tục hành chính ở phường. Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch phải là những người được đào tạo bài bản, chuyên sâu ngành luật; tham gia các lớp tập huấn thường xuyên về kỹ năng, nghiệp vụ trong quá trình công tác; có kinh nghiệm ít nhất 3 năm trong lĩnh vực này. Họ là người thẩm định các hồ sơ liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính, thi hành án dân sự, cưỡng chế vi phạm hành chính nên đảm nhiệm công việc thực hiện ủy quyền ký một số thủ tục hành chính sẽ đạt hiệu quả cao hơn trong thực tế.
Bên cạnh đó, thành phố Hà Nội cũng đã chủ động chuẩn bị trước một bước tổ chức bộ máy, quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ để thực hiện mô hình chính quyền đô thị, không để xảy ra khoảng trống về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về trách nhiệm của những người thực thi công vụ trong thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị từ ngày 1-7-2021 với quan điểm, cán bộ cơ sở là cánh tay nối dài, là cầu nối nắm bắt cũng như giải quyết vướng mắc của người dân thuộc thẩm quyền ở cấp phường; vận hành chính quyền đô thị để bảo đảm quyền lợi của người dân cao nhất, theo đúng quy định của pháp luật; giảm tải cho cấp chính quyền cao hơn, tránh vượt cấp. Qua thời gian ngắn thực hiện cho thấy, chủ tịch ủy ban nhân dân phường được tăng thêm tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, giảm bớt hiện tượng đùn đẩy, xin ý kiến cấp trên, nhằm giải quyết công việc nhanh, phù hợp.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội đặt ra một số vấn đề cần tháo gỡ:
Thứ nhất, theo hướng dẫn, hiện nay, chủ tịch ủy ban nhân dân phường làm việc theo chế độ thủ trưởng, vì vậy, cá nhân người đứng đầu đặt ra yêu cầu rất cao về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, tác phong, đạo đức, lối sống, phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều hành giải quyết công việc thuộc thẩm quyền. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, công chức là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong bối cảnh hiện nay.
Thứ hai, dù không có sự giám sát của đại biểu hội đồng nhân dân do không tổ chức hội đồng nhân dân phường theo quy định của pháp luật, nhưng vẫn còn các hình thức giám sát khác, với cách thức triển khai thực hiện cần phải có hướng dẫn cụ thể để hoạt động giám sát đạt hiệu quả. Theo Nghị định số 32/2021/NĐ-CP, chủ tịch phường đối thoại với nhân dân ở phường ít nhất 2 lần/năm trước mỗi kỳ họp hội đồng nhân dân quận, thị xã; tổ đại biểu hội đồng nhân dân quận, thị xã 6 tháng tiếp xúc cử tri một lần trước kỳ họp (trước đây đại biểu hội đồng nhân dân phường định kỳ tiếp dân 1 tháng/lần).
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức ở phường quy định không quá 15 người, cơ bản đáp ứng được nhiệm vụ. Tuy nhiên, việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp phường cũng gặp phải một số bất cập, khó khăn, khi một công chức cấp phường phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ, lĩnh vực, chuyên ngành khác nhau, thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho chủ tịch phường, các nhiệm vụ khác theo sự phân công và theo quy định của pháp luật, phải am hiểu nhiều kiến thức tổng hợp. Ví dụ như, công chức địa chính - xây dựng - môi trường phải nắm rõ được quy định của pháp luật về trồng trọt, lâm nghiệp, đất đai, xây dựng, môi trường và rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Trong khi đó, văn bản hướng dẫn giữa các ngành, lĩnh vực có không ít sự chồng chéo, mâu thuẫn, đòi hỏi cán bộ, công chức không chỉ vững vàng trong chuyên môn, nghiệp vụ, công nghệ thông tin mà còn phải khéo léo, linh hoạt trong giải quyết công việc. Với đòi hỏi cao của mô hình chính quyền đô thị, khối lượng công việc nhiều, lại là cấp cơ sở sát dân nhất, gần dân nhất, trong khi năng lực, trình độ của cán bộ, công chức cơ sở có giới hạn, sẽ gây nên những khó khăn khi thực thi công vụ. Họ phải được đào tạo bài bản, chính quy về chuyên môn, nghiệp vụ, sắp xếp theo vị trí việc làm, thường xuyên cập nhật, nâng cao kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp luật, chuyển đổi số và công nghệ 4.0.
Thứ tư, khi ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà nước thì cách tổ chức, vận hành phải thật hiệu quả, bởi vì đây là cấp gần dân, sát dân nhất của chính quyền địa phương, với tính chất là cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn, không phải là một cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp quận.
Để triển khai thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội đạt mục tiêu, hiệu quả
Để triển khai thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội đạt mục tiêu, hiệu quả, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, hoàn thiện quy định về mô hình tổ chức bộ máy của chính quyền đô thị. Cụ thể hóa các tiêu chí đối với mỗi cấp chính quyền phù hợp với đặc điểm, tính chất của chính quyền đô thị. Điều chỉnh lại chức năng, thẩm quyền của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân bảo đảm tính tập trung, thống nhất của chính quyền đô thị. Cơ cấu của chính quyền đô thị phải gọn nhẹ, giảm bớt đầu mối trung gian. Ủy ban nhân dân thành phố cần giảm bớt số lượng các phòng, ban chuyên môn. Về lý thuyết, mô hình tổ chức chính quyền đô thị phải bảo đảm các nguyên tắc: Đề cao thẩm quyền, trách nhiệm của chủ tịch ủy ban nhân dân với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; đề cao trách nhiệm cá nhân trên cơ sở phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và tập thể trong tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị; bảo đảm tính chủ động, độc lập của chính quyền đô thị trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao; bảo đảm sự thông suốt, nhanh và hiệu quả, giảm bớt tổ chức trung gian, hướng tới chính quyền đô thị một cấp thống nhất.
Hai là, hoàn thiện quy định về thẩm quyền, phân quyền, ủy quyền trong chính quyền đô thị. Trước mắt, cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên quan đến phân công, phân cấp được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019. Tăng cường phân quyền, phân cấp cho chính quyền đô thị, bảo đảm quyền tự chủ trong các lĩnh vực, từ ngân sách, tài chính, tổ chức bộ máy đến quản lý dân cư, bảo vệ môi trường… Trên nguyên tắc, đối với các đô thị lớn hoặc khu vực lõi đã được phát triển hoàn thiện thì tổ chức bộ máy và sự trao quyền rộng rãi hơn để đô thị có khả năng tự quyết nhiều vấn đề phát triển và phức tạp, như quy hoạch, hạ tầng và đất đai. Đối với các đô thị quy mô nhỏ, tổ chức bộ máy tinh gọn và được giao tự chủ các vấn đề thấp hơn, các cơ quan chính quyền đô thị cũng sẽ được phân cấp nhiều hơn trong việc phê duyệt, đánh giá, chấp thuận, cấp phép và thực hiện các thủ tục hành chính; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận các thủ tục hành chính, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với điều kiện nguồn vốn và các nguồn lực còn hạn chế; thu hút khu vực tư nhân, các doanh nghiệp tham gia cung ứng các dịch vụ công nhiều hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, bảo đảm điều kiện về ngân sách và nguồn nhân lực các địa phương khi phân cấp, phân quyền trong quản lý đô thị, cần nghiên cứu, sửa đổi các luật chuyên ngành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền, tạo điều kiện và cơ chế để chính quyền địa phương có sự tự chủ nhất định trong các quyết định phân bổ, sử dụng nguồn lực theo các thứ tự ưu tiên của địa phương. Mỗi cấp chính quyền nếu được bảo đảm tự chủ nguồn tài chính nhất định thì sẽ chủ động, hiệu quả hơn trong hoạt động. Cần có chính sách và biện pháp khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự chủ, sáng tạo. Chủ động khai thác triệt để các nguồn thu để đáp ứng một cách tốt nhất, phù hợp với tình hình thực tế của các đô thị lớn.
Ba là, lựa chọn bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo (chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân), tuyển dụng công chức chuyên môn bảo đảm đáp ứng yêu cầu, sự hài lòng của người dân, lắng nghe, giải quyết được nguyện vọng, nhu cầu của người dân theo đúng quy định của pháp luật. Chủ thể có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, đánh giá thường xuyên các cán bộ, công chức phường theo yêu cầu của quản lý và thực thi công vụ. Nếu không hoàn thành nhiệm vụ, không đủ năng lực phải có cơ chế xử lý để bảo đảm hoạt động quản lý, điều hành, thực thi công việc tại cấp cơ sở đạt hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền đô thị về quy hoạch phát triển đô thị; quản lý phát triển hạ tầng, môi trường đô thị và vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lý xây dựng đô thị; thiết kế đô thị và bảo tồn di sản đô thị; quản lý đất đai, nhà ở và thị trường bất động sản; vốn đầu tư xây dựng đô thị, chính sách và giải pháp về vốn cho xây dựng phát triển đô thị.
Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, kiểm tra, giám sát của Đảng; giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân cần có quy định cụ thể, phù hợp, hiệu quả hơn khi áp dụng thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Hà Nội.
Năm là, hoàn thiện thể chế, ban hành đầy đủ văn bản quy phạm pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân dân phường, ủy ban nhân dân quận, vấn đề tuyển dụng và sử dụng công chức phường. Khi ủy ban nhân dân phường chuyển thành cơ quan hành chính nhà nước thuộc ủy ban nhân dân quận thì những người làm việc ở phường phải được xem xét để chuyển thành cán bộ, công chức thuộc biên chế của quận và cần có hướng dẫn cụ thể đối với cán bộ của Đảng, đoàn thể của phường thuộc biên chế quận, vì nội dung này thuộc thẩm quyền của Ban Tổ chức Trung ương. Thực hiện phân cấp quản lý đạt hiệu quả hơn, hướng về cơ sở, nhất là các lĩnh vực đô thị, vấn đề dân sinh, đòi hỏi cần phải giải quyết nhanh chóng…
Sáu là, chủ tịch ủy ban nhân dân là người lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc và theo quy định thí điểm ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ thủ trưởng, vì vậy, để tránh lạm quyền, quá trình tổ chức thực hiện công việc cần tuân thủ nguyên tắc pháp quyền, xây dựng quy chế làm việc phối hợp công tác giữa ủy ban nhân dân phường với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước với cấp ủy, các cơ quan nhà nước khác, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Mọi quyết định của ủy ban nhân dân phường với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở phường phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Bảy là, việc được ủy quyền ký một số thủ tục hành chính đã phát huy vai trò chủ động của công chức tư pháp - hộ tịch phường, nhưng bên cạnh đó đòi hỏi trình độ của đội ngũ này phải bảo đảm yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, để họ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, giám sát công chức tư pháp - hộ tịch khi thi hành công vụ, kịp thời chấn chỉnh khi có những biểu hiện nhũng nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức, công dân. Mỗi công chức khi được ủy quyền nói riêng cũng như các công chức ở phường nói chung phải thực sự tận tâm, lấy sự hài lòng của người dân là thước đo hiệu quả của công việc, nâng cao trách nhiệm, đạo đức công vụ, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực để phục vụ nhân dân một cách tốt nhất, hiệu quả nhất./.
---------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 178
(2) Nghị định số 32/2021/NĐ-CP, ngày 29-03-2021, của Chính phủ, “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14, ngày 27-11-2019, của Quốc hội, về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội”; Nghị định số 33/2021/NĐ-CP, ngày 29-03-2021, của Chính phủ, “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 131/2020/QH14, ngày 16-11-2020, của Quốc hội, về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh” và Nghị định số 34/2021/NĐ-CP, ngày 29-03-2021, của Chính phủ, “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 119/2020/QH14, ngày 19-6-2020, của Quốc hội, về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng”
Hà Nội xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới  (21/05/2022)
Những tư duy và cách làm mới trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ thành phố Hà Nội để đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống  (12/02/2022)
“Chìa khóa” giúp Thủ đô Hà Nội phát triển nhanh và bền vững theo hướng đô thị xanh, thành phố thông minh và hiện đại  (17/12/2021)
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển