TCCS - Thời gian qua, trong khi kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ thì hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Thực tế này làm nảy sinh những ý kiến trái chiều về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó có những ý kiến cho rằng, kinh tế nhà nước không nên giữ vai trò chủ đạo; rằng, chủ trương của Đảng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã “phá sản”; rằng nên tư nhân hóa nền kinh tế và chỉ cần tập trung phát triển kinh tế tư nhân là đủ,... Bài viết xin được bàn luận xung quanh những vấn đề này.
Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước
Kinh tế nhà nước (KTNN) được hiểu bao gồm các cấu thành sau: 1- Bộ phận doanh nghiệp (DN) gồm các DN mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và DN mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; 2- Bộ phận phi DN, ngoài các tài sản thuộc sở hữu nhà nước còn bao gồm cả đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia...
Như vậy, KTNN không chỉ là doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Thành phần KTNN bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, trong đó có DNNN. Kinh tế nhà nước và DNNN có điểm chung đều là phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, phục vụ lợi ích toàn dân. Tuy nhiên, KTNN có phạm vi, vai trò rộng lớn hơn DNNN, nó không chỉ dựa trên hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khu vực DNNN mà còn là tập hợp sức mạnh kinh tế thể hiện trên các ngành, lĩnh vực trọng yếu từ các định chế tài chính, pháp luật, sức mạnh quản lý đến điều hành của hệ thống chính trị. Việc khẳng định vị thế và xây dựng KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là các DNNN sẽ giữ vị trí chi phối trong các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ chốt của nền kinh tế, cũng như độc quyền trên nhiều lĩnh vực. Các DNNN, lực lượng nòng cốt của thành phần KTNN sẽ cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, với trọng trách của mình, các DNNN sẽ tiên phong trong các lĩnh vực, ngành mũi nhọn, cần vốn lớn, đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại, những lĩnh vực mà tư nhân không thể làm được hoặc không muốn làm, những ngành, lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh - quốc phòng,...
Với phạm vi rộng lớn như vậy, sở hữu nhà nước và KTNN giữ vị trí trọng yếu, vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nền tảng cơ bản để phát triển mọi ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình DN trong nền kinh tế quốc dân.
Vai trò của kinh tế nhà nước ở các nước tư bản phát triển
Ngay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, khu vực KTNN cũng có vai trò quan trọng và tùy theo chiến lược quản lý của từng quốc gia, khu vực này có phạm vi và tỷ trọng khác nhau.
Tuy nhiên, sự nhận thức về vị trí, vai trò của khu vực KTNN có những bước thăng trầm khác nhau. Vai trò của KTNN bắt đầu được coi trọng từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, đặc biệt nhận thức về khu vực này rõ nhất vào giai đoạn từ thập niên 70 của thế kỷ XX - thời kỳ ảnh hưởng của các lý thuyết “Phúc lợi quốc gia”, “Nền kinh tế thị trường xã hội”... Ở giai đoạn này, nhiều nước bên cạnh việc chấp nhận tăng cường trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của nhà nước vào thị trường thông qua các hình thức và công cụ thông thường của nhà nước (ban hành pháp luật, điều tiết kinh tế, kiểm tra, kiểm soát), còn thông qua nhà nước trực tiếp sở hữu một khối lượng khổng lồ cơ sở vật chất, sử dụng tài chính, tác động vào những lĩnh vực dịch vụ mà trước đây do xã hội tự giải quyết theo cơ chế thị trường... Về quy mô, trên thực tế ở các nước này, sở hữu nhà nước rất lớn, bao gồm 4 mảng chính: 1- Sở hữu nhà nước về đất đai, tài nguyên, hệ thống giao thông; 2- Các DNNN và doanh nghiệp hỗn hợp có cổ phần nhà nước chi phối; 3- Tài chính nhà nước theo nghĩa rộng nó bao gồm toàn bộ phần thu nhập quốc dân huy động vào ngân sách nhà nước; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ bao gồm các chi tiêu có tính chất kinh tế để đầu tư phát triển hoặc chi tiêu cho các dịch vụ công cộng; 4- Các tổ chức cung ứng dịch vụ công cộng, như trường học, bệnh viện, thư viện, công trình thể thao, văn hóa...Nhiều nước có sử dụng khu vực tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT nhưng sau thời hạn khai thác, các công trình này đều chuyển giao về sở hữu nhà nước.
Mặc dù Mỹ tự coi mình là nền kinh tế thị trường tự do, nhưng toàn bộ sở hữu nhà nước ở Mỹ vào cuối thập niên 80 chiếm 20% tổng tài sản quốc gia. Tỷ trọng chi ngân sách của Chính phủ Mỹ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này đã tăng từ 26,8% năm 1960 lên 41,3% năm 2010. Giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu 2008 - 2009, Chính phủ Mỹ đã sử dụng công cụ kinh tế của mình bằng cách chi tới 700 tỷ USD để cứu vãn nền tài chính quốc gia thông qua mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, kích thích tài chính, thúc đẩy tăng trưởng,...
Ở một số nước G7 khác, tỷ trọng sở hữu nhà nước còn cao hơn, đều ở mức khoảng 30% tổng tài sản quốc gia. Riêng về đất đai, quy mô sở hữu nhà nước ở các nước phương Tây là rất lớn.
Đặc biệt, KTNN ở các nước tư bản có vai trò quan trọng trong cung ứng dịch vụ công, giao thông, công viên, bảo đảm an ninh công cộng,... Chẳng hạn với nước Anh vốn được coi là nơi khai sinh của lý thuyết kinh tế thị trường tự do và là một trong những nơi đầu tiên chấp thuận cho tư nhân tham gia phát triển kết cấu hạ tầng công cộng. Nhưng đến năm 2018, Chính phủ Anh đã quyết định dừng hẳn các dự án về kết cấu hạ tầng tư nhân hóa với lý do các dự án công có tư nhân tham gia tốn phí hơn so với các dự án công chỉ do nhà nước thực hiện.
Như vậy, có thể thấy, ngay ở các nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát triển cao, KTNN nói chung và DNNN nói riêng vẫn có vai trò rất quan trọng, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô giúp khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường. Mức độ, phạm vi khu vực KTNN, DNNN không cố định mà được xác lập trên cơ sở yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội.
Hiểu vai trò “chủ đạo” của KTNN như thế nào cho đúng?
Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN): “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(1).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thông qua, khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”(2).
Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013, khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Nói đến vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế là nói đến tầm quan trọng và tính chất quyết định của nó đối với đường hướng phát triển của một quốc gia; thành phần KTNN nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế và là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Đại hội X cũng chỉ rõ vai trò chủ đạo của KTNN: một là, KTNN là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân; hai là, KTNN là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của KTNN là để tạo môi trường phát triển chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho riêng DNNN; bốn là, khẳng định lại một lần nữa KTNN rộng hơn DNNN, hay nói cách khác, DNNN chỉ là một bộ phận của KTNN(3).
Khi đưa ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta xác định các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó KTNN đóng vai trò chủ đạo chứ không “lãnh đạo” đối với các thành phần kinh tế khác. Việc khẳng định thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là phân biệt, đối xử hay hạn chế vai trò và sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, mà các thành phần kinh tế đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, đan xen, liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thành phần kinh tế này làm tiền đề cho thành phần kinh tế khác phát triển.
Như vậy, việc khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN không có nghĩa là quay về quan niệm cũ, coi việc phát triển sở hữu nhà nước là mục tiêu phát triển kinh tế, hoặc cho rằng, muốn xây dựng chế độ mới, cần trước hết phát triển sở hữu nhà nước (cải tạo quan hệ sản xuất), mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đối với nước ta, việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi khu vực tư nhân cần phải được bình đẳng phát triển và dần được khẳng định vị trí, do vậy KTNN mặc dù vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng phạm vi, mức độ và hình thức cần có sự thay đổi cơ bản. Kinh tế nhà nước chỉ cần duy trì và phát triển ở những nơi cần thiết, có vai trò hỗ trợ, dẫn đường bảo đảm cho sự phát triển ổn định của xã hội; khu vực nào mà các thành phần kinh tế khác có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả hơn thì sẽ không cần sự hiện diện của KTNN. Mặt khác, tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta luôn đòi hỏi phải xác định một số lĩnh vực trọng yếu thực hiện mục tiêu chính trị - xã hội.
Tại sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo ở Việt Nam?
Không thể phủ nhận sự phát triển của các nước tư bản đã mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng cùng với đó luôn tồn tại một số xu hướng khách quan sau:
- Công bằng xã hội đã trở thành đòi hỏi tất yếu của chính bản thân sự phát triển kinh tế. Công bằng để phát triển và phát triển để thực hiện công bằng không chỉ là khẩu hiệu mang tính đạo đức mà còn là động lực mạnh mẽ, yếu tố nội sinh của sự phát triển kinh tế. Tất nhiên, công bằng ở đây không phải theo nghĩa cào bằng, đánh đồng siêng năng với biếng nhác, tích cực với tiêu cực, làm ăn hiệu quả với kém cỏi,... điều đó sẽ dẫn tới triệt tiêu động lực phấn đấu của con người.
- Cùng với tăng trưởng kinh tế là yêu cầu về tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế mà đời sống tinh thần, đạo đức xuống cấp sẽ đe dọa ngay đến sự phát triển bền vững của kinh tế. Yếu tố khách quan của cuộc sống đặt ra là tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là kết quả nhưng đồng thời cũng là động lực, yếu tố nội tại của sự phát triển kinh tế.
- Tăng trưởng kinh tế phải đi cùng với sự ổn định về chính trị và về xã hội. Chính sự ổn định trên các lĩnh vực này lại là tiền đề để phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế mà không bảo đảm các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà nước tư sản với bản chất là đại diện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước hết là giới chủ sẽ không bao giờ bảo đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó. Để làm được điều này, nền kinh tế đó phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của từng cá nhân, đồng thời là sự phát triển của tập thể, cộng đồng và xã hội. Và, để bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, KTNN - chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện - phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đó. Đây cũng thể hiện rõ bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoàn toàn khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa, được xây dựng trên cơ sở sở hữu tư bản độc quyền.
Bên cạnh đó, vai trò chủ đạo của KTNN còn có những ý nghĩa sau đối với kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu tàu, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trò của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.
Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.
Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản sau: 1- Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). 2- Tham
gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng xã hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...
Thực tế vai trò của kinh tế nhà nước ở Việt Nam thời gian qua
Ở Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong các thành phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt động, nên thành phần KTNN có vai trò chính trị - xã hội to lớn. Các DN trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trò quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai khoáng, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các DNNN phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các DN này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà nước, các DNNN cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Theo kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế năm 2017 được Tổng cục Thống kê công bố ngày 19-9-2018, tỷ suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng doanh thu) của doanh nghiệp nhà nước đạt 6,6%, trong khi tỷ suất này ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là 6,7% và khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 1,9%; số lượng doanh nghiệp nhà nước ít, nhưng thuế và các khoản đã nộp lại cao nhất với trung bình 104 tỷ đồng/doanh nghiệp. Mức này được Tổng cục Thống kê đánh giá cao hơn nhiều so với khu vực FDI với mức trung bình là 18 tỷ đồng/doanh nghiệp và ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 1 tỷ đồng/doanh nghiệp(4).
Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới suy thoái, thiên tai, dịch bệnh hoành hành, nhờ có sức mạnh của KTNN mà Việt Nam mới bảo đảm cân đối vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế, thành phần KTNN còn đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng, chủ quyền quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới...
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng lồ thì chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của hình thức sở hữu này ngày càng bộc lộ và tạo nên xu hướng làm giảm tính hiệu quả của thành phần kinh tế này, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta đang cơ cấu lại khu vực DNNN, theo đó tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và an ninh - quốc phòng, những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước tiến tới phải thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định việc xác định KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và là tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN cho nền kinh tế./.
------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 83
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73 - 74
(3) PGS, TS. Vũ Văn Phúc: Góp phần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 159
(4) Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 217, ngày 10-9-2019
Hàn Quốc - một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của ASEAN  (28/11/2019)
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm bảo đảm chỉ tiêu dự toán ngân sách thành phố 2019  (03/11/2019)
Để phát triển kinh tế số ở nước ta hiện nay  (02/11/2019)
Thúc đẩy phát triển kinh tế đạt mục tiêu đề ra của năm 2019  (02/11/2019)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm