TCCS - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII xác định mục tiêu “Đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công”, nhằm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, để người dân ngày càng hài lòng với dịch vụ công nhận được. Bên cạnh bảo đảm số lượng dịch vụ công, tính bao quát của dịch vụ công thì chất lượng dịch vụ công, thái độ cung ứng dịch vụ công là những mục tiêu cần phải đạt được.

Tình hình thực hiện chính sách cung ứng dịch vụ công

Chính sách cung ứng dịch vụ công là một tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề cung ứng dịch vụ công theo mục tiêu tổng thể đã xác định: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong những năm qua, Chính phủ ban hành nhiều văn bản thực hiện chính sách cung ứng dịch vụ công, như Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25-4-2006, “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”; Nghị định số 85/2012/NĐ-CP, ngày 15-10-2012, “Về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập”; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14-2-2015, “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”; Nghị định số 54/2016/NĐ-CP, ngày 14-6-2016, “Quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập”; Nghị định số 141/2016/NĐ-CP, ngày 10-10-2016, “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác”... Tuy nhiên, văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn ban hành chậm trễ, nhất là đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương. Hơn nữa, mục tiêu chính sách cung ứng dịch vụ công chưa rõ, do đó việc đánh giá đổi mới chính sách cung ứng dịch vụ công còn gặp khó khăn. Nhiều văn bản quy phạm là điều kiện quan trọng cho việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung, như việc xác định, phê duyệt vị trí việc làm, định mức số lượng viên chức, hợp đồng lao động... đã làm ảnh hưởng đến cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.

Theo nghiên cứu của PAPI(1) về kết quả cung ứng dịch vụ công tập trung đo lường mức độ hiệu quả cung ứng bốn dịch vụ công căn bản cho người dân, phần lớn các tỉnh/thành phố có cải thiện trong cung ứng dịch vụ công; có tới 35 tỉnh/thành đạt những bước cải thiện đáng kể khi so sánh kết quả năm 2016 với năm 2011; người dân hài lòng hơn với điều kiện tiếp cận cũng như chất lượng của dịch vụ y tế công lập và của dịch vụ giáo dục tiểu học công lập trong năm 2016. Mặc dù vậy, theo đánh giá của nhiều người dân, chất lượng dịch vụ công còn chưa được như mong đợi.

Thực hiện giải pháp tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp còn nhiều hạn chế. Việc tổ chức các đơn vị sự nghiệp công chưa khoa học, chưa hợp lý, còn nhiều đầu mối, đặc biệt là nhiều đơn vị sự nghiệp công có quy mô nhỏ. Vẫn còn có nhiều đơn vị sự nghiệp công trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động; còn nhiều đơn vị hoạt động trên các lĩnh vực dịch vụ công mà các tổ chức xã hội có thể cung ứng tốt, đơn vị nhà nước không cần phải thực hiện. Hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công ở địa phương được tổ chức theo ngành, lĩnh vực và địa giới hành chính; có những ngành, lĩnh vực trên một địa bàn có nhiều đơn vị sự nghiệp, gây lãng phí trong sử dụng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực. Số lượng các đơn vị thực hiện tự chủ còn quá ít, việc chuyển đổi cơ chế quản lý sang mô hình doanh nghiệp đạt kết quả thấp.

Các đơn vị sự nghiệp công lập chưa chủ động, chưa tích cực trong công tác sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Số lượng viên chức tăng nhanh, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và y tế, tuy nhiên chất lượng viên chức thực sự chưa cao, dẫn đến sự hài lòng của người dân về các dịch vụ công còn hạn chế. Cơ cấu đội ngũ viên chức vẫn còn nhiều bất cập, chưa hợp lý; tỷ lệ đội ngũ viên chức làm công tác phục vụ còn cao. Đội ngũ viên chức vừa thừa lại vừa thiếu, thừa người làm công tác thừa hành, phục vụ, thiếu người làm chuyên môn nghiệp vụ. Các đơn vị sự nghiệp chưa được chủ động trong tuyển dụng, quản lý viên chức từ giám sát, đánh giá đến thi đua -khen thưởng; trong cơ cấu lại đội ngũ viên chức theo ngạch, chức danh nghề nghiệp, trình độ đào tạo để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, thăng hạng chức danh nghề nghiệp. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của viên chức theo từng lĩnh vực chuyên môn chưa được xây dựng. Mặt khác, trong phân loại, đánh giá viên chức còn tình trạng nể nang, chiếu lệ, hình thức, nên không đánh giá được thực chất chất lượng của viên chức để làm cơ sở sắp xếp lại đội ngũ viên chức. Công tác quy hoạch, sử dụng viên chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của viên chức còn thiếu sự gắn kết với nhau. Những hạn chế này gây khó khăn trong thực hiện tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Tuyển dụng viên chức ít thu hút được người tài, chất lượng đào tạo viên chức của các cơ sở đào tạo còn yếu kém, năng suất lao động viên chức thấp, tiền lương thấp và tiền lương tăng thêm ít. Ở nhiều đơn vị sự nghiệp số lượng biên chế và người làm việc nhiều nhưng công việc thực tế giải quyết ít do nhu cầu dịch vụ công của xã hội thu hẹp, như giáo dục thường xuyên, trường dạy nghề, dẫn tới lãng phí về tiền lương, cơ sở vật chất. Thu hút nhân tài vào làm việc trong đơn vị sự nghiệp còn hạn chế do cơ chế, tiền lương, sử dụng cán bộ còn chưa hợp lý. Bình quân thu nhập của viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công chưa được cải thiện so với nhiều ngành, nghề khác trong xã hội.

Về tự chủ tài chính, các đơn vị sự nghiệp công lập được giao tự chủ nhưng vẫn phải tuân thủ mức trần phí do Nhà nước quy định, trong khi mức thu phí chưa bảo đảm bù đắp đủ chi phí hoạt động cần thiết, chưa sát với yêu cầu chi phí đặc thù của từng ngành, nghề đào tạo cũng như chưa gắn với yêu cầu về chất lượng và thương hiệu của từng đơn vị sự nghiệp công lập. Mặc dù có quy định giá dịch vụ tính đúng, tính đủ các chi phí, nhưng các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn phải dành 40% số thu để tạo nguồn cải cách tiền lương. Chính sách hai giá - giá của đơn vị sự nghiệp công lập và giá của đơn vị ngoài công lập, vẫn được duy trì trong việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, dẫn đến sự quá tải đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Ngân sách nhà nước vẫn thực hiện cấp phát theo cách bình quân, dựa vào yếu tố đầu vào mà chưa gắn kết với kết quả, hiệu quả hoạt động. Quản lý dựa vào phân bổ ngân sách và biên chế hằng năm mà chưa gắn kết với kết quả đầu ra, chưa khuyến khích các đơn vị nâng cao chất lượng dịch vụ công. Nhiều đơn vị sự nghiệp chưa xác định rõ cơ cấu nguồn thu và khả năng tự bảo đảm chi thường xuyên để làm cơ sở xác định chính xác mức hỗ trợ của ngân sách. Việc lập dự toán thu, chi ngân sách ở nhiều đơn vị sự nghiệp chưa phản ánh hết các nguồn thu hoặc lập dự toán với số thu thấp hơn số thực thu năm trước, nội dung chi cao hơn để được tăng hỗ trợ từ ngân sách, lập dự toán chi cao hơn số quyết toán các năm trước liền kề, nhưng không có thuyết minh và lý giải hợp lý nguyên nhân tăng.

Giải pháp chính sách về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công được thực hiện cầm chừng ở các bộ, ngành và địa phương. Tiến độ thực hiện chuyển đổi cơ sở công lập, bán công sang loại hình ngoài công lập hoặc doanh nghiệp còn chậm. Việc triển khai xã hội hóa không đồng đều giữa các vùng, miền và cả giữa các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội như nhau. Các chính sách đòn bẩy kinh tế, như thuế, tín dụng, đất đai, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội chưa được triển khai thực hiện đồng bộ và nhất quán để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các cơ sở dịch vụ ngoài công lập.

Phương hướng giải pháp thời gian tới

Xuất phát từ góc độ chính sách cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, có thể thấy rõ có 2 giải pháp chính sách chủ yếu để thực hiện mục tiêu chính sách cung ứng dịch vụ công là: 1- Tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; 2 - Đẩy mạnh xã hội hóa cung ứng dịch vụ công. Đồng thời, để thực hiện 02 giải pháp chính sách cơ bản trên còn cần đến một loạt các giải pháp chính sách công đồng bộ khác. Đó là nhóm 5 giải pháp đóng vai trò làm điều kiện, gồm: Một là, ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng và không sử dụng ngân sách nhà nước; hai là. quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập; ba là, ban hành, sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công; bốn là, ban hành, sửa đổi, bổ sung quy định tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; năm là, ban hành và thực hiện kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, giám sát, đánh giá chất lượng dịch vụ sự nghiệp công.

Về tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập.

Nhà nước tiếp tục chăm lo bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước; giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công lập. Để triển khai giải pháp chính sách này cần hội tụ đủ các điều kiện thực hiện, đồng thời còn phải tiến hành các giải pháp trực tiếp trên các phương diện: tự chủ về tổ chức bộ máy; tự chủ về nhân sự; tự chủ về tài chính.

Đơn vị sự nghiệp cần đổi mới quản lý nội bộ, tăng cường năng lực công tác; ngăn ngừa sự lạm quyền của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp nếu thực hiện cơ chế tự chủ. Chuyển từ hội đồng quản lý sang hội đồng tự quản, bởi hình thức tự quản bảo đảm tập thể viên chức, người lao động tham gia giám sát tại chỗ quyền lực người đứng đầu thể hiện tính dân chủ và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó còn có những vấn đề khác cần lưu ý, như quản lý sự thay đổi, hoạt động tại đơn vị sự nghiệp, quản lý tốt con người (viên chức), tài chính và các nguồn lực, hệ thống thông tin, quá trình học hỏi và phát triển viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập...

Hội nghị Trung ương 6 khóa XII yêu cầu khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về công chức, viên chức; rà soát, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tinh giản biên chế; đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Giảm mạnh sự can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị sự nghiệp công lập; từng bước tiến tới xóa bỏ “chủ quản” theo cơ chế cũ. Trung ương Đảng yêu cầu tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với nhau và với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính ở các cấp trong quản lý ngân sách nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tránh chồng chéo, thất thoát, lãng phí. Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp làm chậm, cố tình trốn tránh hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao và vi phạm các quy định. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Hình thành các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập về chất lượng dịch vụ sự nghiệp công theo ngành, lĩnh vực.

Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Chú ý rà soát, hoàn thiện quy định phù hợp với từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công và từng loại hình đơn vị sự nghiệp công lập. Đổi mới, tăng cường chế độ kế toán, hạch toán, kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị, hoạt động sự nghiệp do Nhà nước giao với hoạt động cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của xã hội. Ngân sách nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu và các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Thực hiện cơ chế giao vốn, tài sản cho đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, bảo toàn, phát triển và chịu trách nhiệm trước Nhà nước và pháp luật.

Đổi mới phương thức quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công lập: chuyển từ quản lý truyền thống cũ quan tâm đến đầu vào là giao ngân sách, nhân lực sang phương thức quản lý dựa vào kết quả/mục tiêu hoạt động, trao quyền cho đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ công. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII cũng yêu cầu phải khẩn trương sắp xếp, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với đặc điểm tình hình của từng ngành, lĩnh vực và địa bàn, gắn với đẩy mạnh xã hội hóa (nhưng không thương mại hóa) các lĩnh vực cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Bảo đảm đơn vị sự nghiệp công lập chủ động hơn trong quản lý cung ứng dịch vụ công để nâng cao chất lượng dịch vụ.

Về xã hội hóa cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 yêu cầu: “Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách tạo điều kiện đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường và thúc đẩy xã hội hóa trong việc cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công”(2).

Để thực hiện Nghị quyết, theo chúng tôi, dựa trên danh mục dịch vụ công, quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công mà lựa chọn phương thức xã hội hóa dưới các hình thức sau: Một là, Nhà nước ủy quyền cho các tổ chức xã hội hay các công ty tư nhân cung ứng một số dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm; hai là, chuyển giao trách nhiệm cung ứng dịch vụ công cho một số tổ chức ngoài nhà nước có điều kiện thực hiện có hiệu quả; ba là, tư nhân hóa một số dịch vụ công.

Môi trường hoạt động của khu vực ngoài nhà nước còn chưa ổn định nên công cụ chính sách để thực hiện giải pháp này phải là công cụ luật pháp. Do đó, việc cấp thiết là xây dựng pháp luật khuyến khích, tạo điều kiện, thiết lập môi trường hoạt động bình đẳng, cạnh tranh cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Công cụ chính sách khác để thực hiện giải pháp này là, một mặt, nâng cao nhận thức; mặt khác, có các chương trình khuyến khích xã hội hóa các hoạt động dịch vụ sự nghiệp công. Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học - công nghệ có đủ điều kiện thành doanh nghiệp, bao gồm cả hình thức công ty cổ phần.

Các công cụ chính sách thực hiện giải pháp này là khuyến khích bằng cho thuê, xây dựng cơ sở vật chất cho khu vực xã hội; giao đất lâu dài, cho thuê đất để thực hiện cung ứng dịch vụ công; giảm lệ phí trước bạ, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; ưu đãi về tín dụng cho đơn vị cung ứng dịch vụ công; trợ giúp trong huy động vốn; khuyến khích đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động; khen thưởng, tôn vinh các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài xã hội; xử lý tài sản giúp thúc đẩy quá trình xã hội hóa đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Về nhóm giải pháp đóng vai trò điều kiện bảo đảm thực hiện.

Những vấn đề đặt ra đối với nhóm giải pháp này là: 1- Cơ sở thực hiện xã hội hóa được thành lập, cấp phép hoạt động phải bảo đảm theo quy hoạch và bảo đảm các tiêu chí về quy mô, tiêu chuẩn theo quy định nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường; 2- Nhà nước, xã hội coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở thực hiện xã hội hóa; 3- Nhà nước có nhiệm vụ giao đất, cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng đối với cơ sở thực hiện xã hội hóa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; có chính sách hỗ trợ kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xã hội hóa; 4- Nhà nước áp dụng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho cơ sở thực hiện xã hội hóa để khuyến khích đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dịch vụ; 5- Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội khi thụ hưởng các dịch vụ do cơ sở thực hiện xã hội hóa cung cấp; 6- Cơ sở thực hiện xã hội hóa được liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ hoạt động nhằm huy động vốn, nhân lực và công nghệ, nâng cao chất lượng dịch vụ; 7- Cơ sở thực hiện xã hội hóa được tham gia cung cấp các dịch vụ công do Nhà nước tài trợ, đặt hàng; tham gia đấu thầu nhận các hợp đồng, dự án sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nước phù hợp với chức năng nhiệm vụ hoạt động theo quy định của pháp luật.

Các giải pháp phải được thực hiện theo mỗi lĩnh vực, ngành và địa phương. Điều này có nghĩa là mỗi một lĩnh vực, ngành, chẳng hạn như giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, môi trường, văn hóa - xã hội... phải tiến hành quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công theo ngành, lĩnh vực; danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước. 63 tỉnh, thành phố cần phải ban hành quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công của Nhà nước để tránh chồng chéo gây tốn kém, lãng phí.

Mỗi lĩnh vực, ngành, địa phương ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước và không sử dụng ngân sách theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII là tăng cường xã hội hóa, giảm tải cho ngân sách và quản lý: “Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn mà khu vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công khai, minh bạch, không thương mại hóa. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập”(3).

Mỗi lĩnh vực, ngành và địa phương phải ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công do Nhà nước quản lý; quy định về đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Giải pháp chính sách điều kiện này rất quan trọng giúp tính giá đối với dịch vụ công một cách công bằng với tất cả các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài khu vực nhà nước và xã hội. Xây dựng, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công; tiêu chí phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập; tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công của đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực; hệ thống tiêu chuẩn chức danh những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập.

Mỗi lĩnh vực, ngành và địa phương phải ban hành quy định tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công. Để bảo đảm quản lý nhà nước về dịch vụ công, tiêu chuẩn chất lượng rất quan trọng nhằm không phân biệt đối xử đơn vị cung ứng dịch vụ công thuộc khu vực nhà nước hay khu vực xã hội. Chất lượng dịch vụ còn đi kèm với giá dịch vụ công, do đó ban hành tiêu chuẩn chất lượng có ý nghĩa rất lớn trong thực hiện mục tiêu chính sách cung ứng dịch vụ công. Sự đa dạng, phức tạp của dịch vụ công càng cần có một bộ tiêu chuẩn chất lượng đối với mỗi dịch vụ công đó để bảo đảm quản lý tốt nhất.

Mỗi ngành, lĩnh vực và địa phương cần ban hành và thực hiện quy định kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, giám sát và đánh giá chất lượng dịch vụ sự nghiệp công thường xuyên và định kỳ. Ban hành và thực hiện cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sẽ bảo đảm hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công cả trong và ngoài khu vực công.

Để hoàn thiện chính sách cung ứng dịch vụ công, cần sớm xây dựng luật về cung ứng dịch vụ công, bởi tính bao quát, đa ngành đa lĩnh vực với sự tham gia của nhiều chủ thể cả khu vực nhà nước và xã hội. Luật cần tập trung giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và cơ sở cung ứng dịch vụ công, cơ sở cung ứng dịch vụ công và xã hội, người dân, doanh nghiệp; chấn chỉnh những hành vi các chủ thể nhà nước, xã hội, doanh nghiệp và người dân cản trở cung ứng hoặc làm giảm đi chất lượng dịch vụ công./.

---------------------------------------------------------------

(1) PAPI là khảo sát xã hội học lớn nhất tại Việt Nam tìm hiểu hiệu quả cung ứng dịch vụ công dựa trên đánh giá và trải nghiệm của người dân, với dữ liệu được thu thập thường niên được thực hiện bởi Trung tâm Nghiên cứu phát triển - hỗ trợ cộng đồng (CECODES) thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật Việt Nam và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) từ năm 2009 đến nay

(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 100

(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 83