Vòng xoáy di cư lao động ASEAN

Hà Thu
17:17, ngày 16-12-2010

TCCSĐT - Từ năm 1960 đến nay, tỷ lệ lao động di cư duy trì ở mức 3% dân số thế giới. Tuy nhiên, phần lớn dòng di cư trên thế giới lại không diễn ra giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển, mà chính trong nội bộ các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thu hút lực lượng lao động di cư lớn trong khu vực do mức chênh lệch thu nhập, xu hướng dân số và sự gần gũi về địa lý. Di cư tại khu vực Đông Nam Á là một điển hình.

Đông Nam Á - di cư gia tăng

Theo một kết quả nghiên cứu của Đại học Tổng hợp Buốc-đô (Bordeaux) (Pháp), trong thập kỷ qua, Đông Nam Á là một trong những khu vực cung cấp hợp đồng lao động chính cho thế giới. Tình hình di cư ở Đông Nam Á rất đa dạng, điểm thấy rõ nhất là số dân di cư áp đảo số dân nhập nhập cư. Có một điểm thú vị là, chỉ số nghèo và thu nhập bình quân đầu người có ảnh hưởng đến xu hướng di cư hay nhập cư của các nước. Các nước di cư (Phi-líp-pin, Lào, Mi-an-ma, Việt Nam, In-đô-nê-xi-a) đều là những nước có chỉ số nghèo cao nhất (trên 15) và GDP thấp nhất (dưới 5000 USD/năm), trong khi các nước nhập cư (Xing-pa-po, Bru-nây) có các chỉ số nghèo thấp nhất (dưới 7) và GDP cao nhất (trên 19000 USD/năm). Ma-lai-xi-a và Thái Lan đứng ở mức trung gian, chỉ số nghèo từ 83 đến 9,3 và GDP từ 8000 – 10000 USD/năm, thì đều là 2 nước có tỉ lệ xuất cư và nhập cư ngang nhau.

Ngay từ cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973, các cuộc di cư của lao động có hợp đồng ở Đông Nam Á đã tăng nhanh sang vùng Trung Đông và từ đó đến năm 2000, chiếm đến hơn 50% trong tổng số lao động nước ngoài có mặt tại đây. Bước sang thập kỷ sau, điểm đến của các lao động xuất khẩu khu vực Đông Nam Á đã được mở rộng hơn tới các nước Đông Á (Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản). Có hai nhóm lao động xuất khẩu: Nhóm thứ nhất, chiếm đa số là lao động trình độ thấp có thu nhập thấp, thường đến những nước có tốc độ tăng trưởng nhưng thiếu nhân lực ở châu Á và Trung Đông. Những người này đến từ In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Mi-an-ma, Phi-líp-pin và Việt Nam; nhóm thứ hai với số lượng ít hơn nhiều, là những lao động có trình độ cao, từ Xing-ga-po và Phi-líp-pin đến làm việc tại các nước công nghiệp mới và tại những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng hệ thống giáo dục chưa đào tạo đủ lao động bậc cao.

Phi-líp-pin là nước xuất khẩu lao động lớn nhất trên thế giới. Năm 2006, Chính phủ Phi-líp-pin ước tính có khoảng 8,2 triệu người Phi-líp-pin ra nước ngoài, chiếm 25% dân số trong độ tuổi lao động và 9% tổng dân số cả nước. Khoảng hai phần ba trong số này đến từ các vùng nông thôn và gần một nửa trong số họ có bằng đại học. Phạm vi nhân lực ngành nghề của Phi-líp-pin rất rộng, từ những công việc có trình độ cao (kỹ sư, bác sỹ, y tá, giáo viên…) đến những công việc không đòi hỏi trình độ cao (lao động nông nghiệp, giúp việc gia đình…). In-đô-nê-xi-a cũng xuất khẩu lượng lớn lao động, khoảng 4,3 triệu người năm 2007. Ma-lai-xi-a, Trung Đông và Đài Loan là những thị trường chính của nước này. Cùng với Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, số lao động xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng liên tục qua nhiều năm, từ 36.000 năm 2006 lên 75.000 năm 2009, năm 2010 dự kiến tăng lên 85.000 người. Ma-lai-xi-a, Đài Loan và Hàn Quốc là những thị trường chính cho lao động Việt Nam. Còn tại Xing-ga-po, điểm thắt nút của hệ thống di cư trong khu vực, năm 2008 có hơn 1 triệu lao động nước ngoài trên tổng số 2,95 triệu lao động cả nước, phần lớn là người Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin với giấy phép làm việc tạm thời. Tại Bru-nây, số lao động nước ngoài ước tính 75.000 người, chiếm 40% tổng số lao động trong nước, phần lớn là người In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a.

Di cư lao động - giải pháp cho chống nghèo đói ở nông thôn Đông Nam Á

Việc di cư lao động là quy luật tất yếu của nền kinh tế chuyển đổi và những lao động di cư phần lớn là từ nông thôn. Câu hỏi đặt ra là: di dân có phải là một giải pháp cho tình trạng nghèo đói ở nông thôn Đông Nam Á hay không?

Tiền mặt hay vốn chuyển giao của người di cư về cho cộng đồng ở quê hương hiện nay đã và đang cho thấy những hiệu quả trong việc giảm nghèo đói ở nông thôn. Ngoài việc bảo đảm các chi phí cho việc học hành của con trẻ, cho tiêu dùng (cải thiện nhà ở, mua sắm trang thiết bị sinh hoạt…), nguồn tiền này còn mang đến những khoản đầu tư sinh lời về thiết bị hay mua đất trong những dự án khai thác nhỏ. Kiều hối đã tăng rất nhanh trong vòng 10 năm qua, đóng vai trò chủ chốt trong phát triển nông nghiệp và trong các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn (doanh nghiệp nhỏ). Kiều hối rõ ràng có tác động tới tình trạng đói nghèo và phân biệt tầng lớp trong xã hội. Sự phân biệt tầng lớp xã hội ở khu vực nông thôn hiện nay không còn gắn chặt với khái niệm sở hữu đất đai nữa mà ngày càng có xu hướng phụ thuộc vào thu nhập có được từ người di cư.

Bảng : Kiều hối và tầm quan trọng đối với kinh tế của nước xuất cư

Nước

Ước tính kiều hối của lao động di cư năm 2008 (triệu USD)

Tỷ lệ tăng của kiều hối (2001 – 2008)

Tỷ lệ tăng của các khoản chi cho tiêu dùng (2001-2008)

Phần đóng góp của kiều hối trong GDP (%) năm 2007

Việt Nam

5500

15,5

13

7,90

Thái Lan

1800

5,3

13

0,70

Lào

1

2,6

10,4

0

Ma-lai-xia

1810

12,5

14,6

1

In-đô-nê-xia

6500

29,8

18,1

1,50

Phi-lip-pin

18669

17,2

14,7

11,6

Cam-pu-chia

353

14,9

11,8

4,20

Nguồn: Ngân hàng Thế giới.

Rõ ràng, lao động di cư đã mang lại những nguồn thu nhập đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình di cư đã nảy sinh nhiều bất cập: nạn di cư bất hợp pháp, lao động không được bảo đảm đầy đủ quyền lợi ở nước sở tại, quản lý lao động lỏng lẻo, nạn buôn bán người diễn ra ngày càng trắng trợn và tinh vi...

Di cư bất hợp pháp - bài toán khó giải

Tâm điểm của lao động di cư bất hợp pháp là Thái Lan. Không thể thống kê chính xác số lượng người di cư bởi số nhập cảnh bất hợp pháp rất lớn. Khoảng 2 triệu người Mi-an-ma đang có mặt tại Thái Lan, họ chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ, giúp việc gia đình. Rất nhiều người Lào và Cam-pu-chia cũng di cư sang Thái Lan không có giấy phép làm việc. Trong số họ, một phần làm giúp việc gia đình và một phần làm việc trong ngành nông nghiệp và xây dựng.

Ma-lai-xi-a cũng là nước có nhiều lao động di cư đến. Đầu năm 2007, số lao động nước ngoài tại nước này đạt con số 2,8 triệu (trên tổng số 12 triệu lao động cả nước), trong đó gần 1/3 là bất hợp pháp. Lao động bất hợp pháp vào Ma-lai-xi-a bằng 2 con đường: thứ nhất, họ đến từ những đảo nhỏ ở Son-de, đường thứ hai xuất phát từ Đông Ja-va. 90% trong số họ là nam giới và 99% đến từ In-đô-nê-xi-a. Lộ trình của những người di cư bất hợp pháp này rất đa dạng, nhưng điểm cuối cùng trước khi vượt eo biển Ma-lac-ca là bờ biển Bắc Su-ma-tra và Ri-au. Phần lớn người di cư này 70% đến từ Ja-va, quần đảo Ri-au là không gian trung chuyển chính. Ước tính ở đây có tới hơn 150 điểm trung chuyển. Nhiều đường dây đưa người giữa hai bờ eo biển tạo thành một hoạt động thương mại thu lời rất lớn.

Cùng với nạn di cư bất hợp pháp, các vấn đề về bảo đảm quyền lợi người lao động, nạn buôn người, lạm dụng lao động trẻ em… ở khu vực Đông Nam Á đang diễn ra rất phức tạp. Chính phủ các nước đã có những chính sách riêng nhằm giải quyết những bất cập đó. Đơn cử như: Hội nghị Ủy ban thực hiện Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di cư lần thứ 3 (năm 2010) đã được nhóm họp. Hội nghị này đã tập trung thảo luận các chủ đề chính là tăng cường bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư chống bóc lột và ngược đãi; đẩy mạnh bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư thông qua tăng cường quản lý lao động di cư của các nước thành viên ASEAN; hợp tác khu vực ASEAN chống lại nạn buôn bán người…Vấn đề này sẽ vẫn là tâm điểm trong nhiều năm nữa khi mà tiến trình hội nhập quốc tế đang được đẩy nhanh trên toàn cầu./.